Vẫn băn khoăn tính thuế giao dịch vàng?
Đề xuất đánh thuế vàng liên tục được đưa ra trong bối cảnh giá vàng trong nước neo rất cao và nới rộng khoảng cách với thế giới lên hơn 20 triệu đồng/lượng, chưa kể mỗi lần giá vàng biến động người dân lại ùn ùn xếp hàng đi mua bán vàng.
Tính thuế giao dịch vàng để hạn chế đầu cơ
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng khi nói về đề xuất thu thuế đối với chuyển nhượng vàng miếng đã cho rằng, mục tiêu lớn nhất của quy định này là điều chỉnh hành vi mua bán vàng, hạn chế tình trạng đầu cơ gây biến động thị trường.
Cụ thể Dự thảo luật thuế Thu nhập cá nhân (TNCN) sửa đổi giao Chính phủ căn cứ tình hình quản lý thị trường vàng, quy định thời điểm áp dụng, ngưỡng giá trị vàng miếng chịu thuế và điều chỉnh thuế suất cho phù hợp với lộ trình quản lý thị trường vàng. Thuế thu nhập cá nhân đối với chuyển nhượng vàng miếng thu với mức 0,1% trên giá chuyển nhượng từng lần.
Việc giao Chính phủ quy định cụ thể ngưỡng giá trị vàng miếng chịu thuế nhằm loại trừ trường hợp những cá nhân thực hiện mua, bán vàng cho mục đích tiết kiệm, cất giữ (không vì mục đích kinh doanh), phù hợp với tập quán mua vàng tích trữ của một bộ phận người dân hiện nay.

Quy định này cũng đảm bảo Chính phủ có cơ sở pháp lý quyết định việc thu thuế và các nội dung cụ thể như ngưỡng chịu thuế, điều chỉnh thuế suất khi các điều kiện về quản lý thị trường vàng đáp ứng yêu cầu của công tác thu và quản lý thu.
Thực tế các cá nhân giao dịch vàng gần như không chịu thuế, trong khi chứng khoán đã áp dụng cơ chế thuế TNCN rõ ràng. Do vậy nhiều quan điểm cũng đã nói rằng, tác động của chính sách đánh thuế giao dịch vàng miếng này không chỉ nhằm tăng thu ngân sách mà mục tiêu chính là điều tiết hành vi thị trường. Khi chi phí giao dịch tăng lên, hoạt động lướt sóng sẽ giảm, biến động giá cực đoan cũng bớt dần. Chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới sẽ được thu hẹp nhờ đầu cơ ngắn hạn kém hấp dẫn. Quan trọng hơn, chính sách sẽ đưa vàng vào cùng một mặt bằng thuế với các kênh đầu tư khác.
Chia sẻ với phóng viên Báo Đại đoàn kết, chuyên gia kinh tế - TS Huỳnh Thanh Điền cho rằng, phần lớn người dân hiện nay xem vàng là tiền, nên nếu như vàng cất giữ này đưa ra giao dịch thì không nên tính thuế mà chỉ đánh thuế với những người có động cơ kinh doanh. Mà thực ra việc này không hề khó, vì giai đoạn mua bán yêu cầu kê khai về giấy tờ, về hoá đơn thì việc giao dịch nhiều lần liên tiếp trong một quãng thời gian ngắn sẽ được lưu lại hết. Vậy thì những người này dù là giao dịch ít nhiều cũng nhìn rất rõ được sự đầu cơ, mua rẻ bán đắt, lướt sóng.
Vị chuyên gia này cho rằng, ngưỡng chịu thuế hợp lý để đánh thuế theo như dự thảo Luật đưa ra cần đặt trong mối tương quan thời gian nắm giữ và số lần giao dịch.
Nên phân biệt rõ giữa đối tượng kinh doanh, đầu cơ vàng với người dân tích lũy tiết kiệm
Tuy nhiên, tâm lý của nhiều người Việt là mua vàng bỏ ống, tức là chỉ tiết kiệm, không hẳn là đầu tư. Lúc cần, lúc có việc mới đem ra bán lại. Như vậy, dù tính thuế ở mức nào, ở ngưỡng giá trị nào cũng cần phân biệt rõ ràng giữa đối tượng kinh doanh, đầu cơ vàng với người dân tích lũy tiết kiệm bằng vàng, bán đi để trang trải cuộc sống.
Ông Shaokai Fan - Giám đốc khu vực châu Á - Thái Bình Dương (không bao gồm Trung Quốc) kiêm Giám đốc Ngân hàng Trung Ương toàn cầu tại Hội đồng Vàng thế giới phân tích, bất kỳ giải pháp nào về thuế với vàng, Việt Nam cũng nên thiết kế để đáp ứng 2 mục tiêu.
Đó là giảm tối đa tình trạng đầu cơ và tránh hiện tượng người dân chuyển từ giao dịch tại thị trường chính thức sang phi chính thức nhằm né thuế.
Ngoài ra, Việt Nam cũng cần cân nhắc tác động của thuế với vàng trong mối tương quan với các nước láng giềng. "Thực tế, khi có chênh lệch về thuế sẽ tạo ra dòng chảy tự nhiên. Ví dụ, Việt Nam đánh thuế, trong khi các nước láng giềng không đánh thuế thì vàng sẽ chảy xuyên biên giới từ nước này qua nước khác"- ông Shaokai Fan nói.
Chuyên gia Nguyễn Thanh Trúc cũng cho rằng mọi hoạt động kinh doanh đều cần phải nộp thuế và vàng cũng là một loại hàng hoá giao dịch trên thị trường nên phải chịu thuế. “Tuy nhiên, cần phân biệt người đến mua một vài chỉ với những người đầu cơ. Hiện nay, doanh nghiệp kinh doanh vàng thì dễ, vì khi họ bán vàng, họ phải nộp thuế, còn khi người dân đến bán vàng, chúng ta phải thu thuế như thế nào? Thường, mua bán vàng vật chất ở nước ta là phải mua bán trực tiếp, có thể giao dịch tiền mặt. Điều này sẽ khó quản lý đối với những giao dịch ở các địa phương, cửa hàng nhỏ, lẻ. Theo tôi, việc đánh thuế giao dịch vàng để chống đầu cơ là hết sức cần thiết, song cũng cần tính toán để vừa tránh được thất thu thuế, vừa công bằng cho những người mua vàng nhỏ lẻ, không phải đối tượng đầu cơ” - ông Trúc nói.
Trong khi đó theo quan điểm của chuyên gia kinh tế TS Nguyễn Trí Hiếu, trong gần 1 năm qua, giá vàng thế giới tăng khoảng 56%, trong khi vàng trong nước tăng tới 80%. Không khó hiểu khi người dân chuyển từ bất động sản, chứng khoán hay gửi tiết kiệm sang vàng bởi bất động sản cần vốn lớn, chứng khoán đòi hỏi kiến thức và rủi ro, lãi suất gửi ngân hàng khó cạnh tranh với mức sinh lời của vàng thời gian qua. Vì vậy, chúng ta phải ghi nhận nhu cầu tích lũy và đầu tư vàng của người dân là chính đáng.
Vàng tại Việt Nam không chỉ là tài sản đầu cơ mà còn đóng vai trò tích lũy, bảo hiểm tài chính. Nhiều gia đình không có bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm y tế, nên vàng trở thành “của để dành”, được sử dụng khi gặp biến cố. Tính thanh khoản cao, dễ mua bán, chia nhỏ, giữ kín khiến vàng trở thành lựa chọn quen thuộc và sâu gắn với tập tính tài chính của người dân Việt Nam.

TS Cấn Văn Lực - chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng khi bàn về thị trường vàng đã nhấn mạnh, vấn đề quan trọng nhất hiện nay là xác định rõ phạm vi vàng cần quản lý. Vàng miếng, vàng thỏi - vốn mang tính đầu tư, dự trữ và liên quan trực tiếp đến ổn định tài chính - phải tiếp tục được quản lý chặt. Trong khi đó, vàng trang sức hay vàng thủ công mỹ nghệ mang tính tiêu dùng và hàm lượng giá trị gia công cao, do đó cần cân nhắc mức độ quản lý phù hợp, tránh áp đặt cơ chế như đối với vàng miếng, gây tốn kém và không cần thiết.
Việt Nam cũng cần nhìn nhận lại mức độ “vàng hoá” của nền kinh tế, xác định mức độ tích trữ vàng trong dân, công khai minh bạch dữ liệu và kiên định chấm dứt hoàn toàn quan hệ vay - mượn bằng vàng để giảm rủi ro hệ thống. Về chênh lệch giá vàng trong nước - quốc tế, yếu tố cấp bách là tăng cung hợp pháp. Điều này gồm giảm chi phí chế tác, chuẩn hóa quy cách vàng miếng, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong nhập khẩu và sản xuất để nguồn cung không còn khan hiếm.
Khi việc tiếp cận vàng trở nên quá khó, tâm lý tò mò và đổ xô mua càng tăng, đẩy thị trường vào bất ổn. Do đó, cần minh bạch hoá thị trường và song song tạo ra các kênh đầu tư hấp dẫn khác để người dân chuyển hướng dòng tiền sang sản xuất - kinh doanh thay vì đầu cơ vàng. Bên cạnh đó, công tác chống buôn lậu vàng phải được đẩy mạnh, đồng thời triển khai đầy đủ Nghị định 232 để tăng cung vàng miếng một cách hợp pháp và minh bạch.