Bảng xếp hạng của tạp chí Times Higher Education về 300 trường ĐH tốt nhất châu Á năm 2017 không có tên một trường ĐH nào của Việt Nam. Theo TS Lê Viết Khuyến- nguyên Vụ phó Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD-ĐT), đây là một thực tế đáng buồn. Nhưng điều ông quan tâm hơn là hệ thống giáo dục của Việt Nam đang ở đẳng cấp như thế nào? Nếu chỉ một vài trường lẻ loi đạt được đẳng cấp cao trong khi cả hệ thống ở đẳng cấp thấp thì cũng vẫn đáng lo ngại.
TS Lê Viết Khuyến.
PV: Thưa ông, ông nhìn nhận thế nào về việc không trường ĐH nào của Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng 300 trường ĐH tốt nhất châu Á năm 2017 do tạp chí Times Higher Education công bố?
TS Lê Viết Khuyến: Mỗi tổ chức xếp hạng đều đưa ra các tiêu chí khác nhau. Tôi được biết, bảng xếp hạng ĐH này nhấn mạnh vai trò của nghiên cứu: chỉ 25% là giảng dạy, 75% còn lại là nghiên cứu và liên quan tới nghiên cứu. Như vậy, có thể thấy việc vắng bóng các trường ĐH của Việt Nam chứng tỏ chúng ta chưa có ĐH nghiên cứu đẳng cấp cao như các nước trong khu vực.
Hiện nay, ở Việt Nam, về mặt chính sách vẫn đang tách rời các hoạt động nghiên cứu chủ yếu thuộc về các viện nghiên cứu còn ĐH chủ yếu làm nhiệm vụ đào tạo. Nếu muốn lọt được vào danh sách này, vấn đề của chúng ta là phải sắp xếp lại hệ thống các trường ĐH và viện nghiên cứu làm sao để hỗ trợ cho nhau, cũng phát triển. Kinh nghiệm của nhiều trường ĐH tiên tiến trên thế giới và trong khu vực là hiện nay ĐH không chỉ là nơi trao đổi kiến thức mà là nơi phát triển kiến thức mới. Nghiên cứu phải là một hoạt động không thể thiếu ở môi trường ĐH.
Ngoài ra, tôi cũng băn khoăn không biết có trường ĐH nào của Việt Nam đăng ký tham gia hay cung cấp thông tin cho tạp chí Times Higher Education để xếp hạng hay không? Bởi như chúng ta đã biết, bảng xếp hạng QS có tên của ĐHQG HN và ĐHQG TP HCM trong top 200 ở châu Á.
Thưa ông, có nghiên cứu chỉ ra rằng rất nhiều trường đầu tư nhiều tiền để được lọt vào danh sách các trường tốt nhất cũng như để duy trì vị trí này liên tục trong các năm. Ở Việt Nam, việc đầu tư này phải chăng chưa nhiều, cả về phía các trường cũng như phía Nhà nước?
- Điều này có thể diễn ra ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Còn Việt Nam vừa mới thoát nghèo mà đặt mục tiêu đó, tôi cho rằng không dễ thực hiện. Chúng ta còn rất nhiều việc phải làm, trong đó đầu tư cho giáo dục cũng đã khá hơn so với trước kia nhiều dù chưa thể gọi là cao so với nhiều nước có nền kinh tế phát triển hơn.
Cụ thể, Nhà nước dành 20% ngân sách quốc dân đầu tư cho giáo dục cũng là một con số cao mà không phải nước nào cũng được thế
Nhưng do chúng ta còn nghèo nên đầu tư ít, không bằng các nước khác là đương nhiên. Nếu nghèo mà sử dụng xa xỉ mới là cái tội.
Tuy nhiên, điều tôi quan tâm hơn là với lượng tiền đầu tư cho giáo dục như thế, phải sử dụng sao cho hiệu quả. Để giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu, thúc đẩy được nền kinh tế đất nước phát triển.
Khi mặt bằng kinh tế của đất nước được nâng lên thì lúc đó lại quay lại đầu tư nhiều hơn cho giáo dục. Bài toán đấy không thể nóng vội được.
Có ý kiến cho rằng thời gian qua ngành giáo dục đã có những thay đổi nhưng chủ yếu mới tập trung ở cấp phổ thông mà chưa có chuyển biến rõ rệt ở cấp ĐH và sau ĐH. Quan điểm của ông?
- Muốn đổi mới rõ rệt đòi hỏi phải có đầu tư lớn mà ngay trong một thời gian ngắn chưa thể làm được. Như tôi đã nói ở trên, phải làm sao để sử dụng hiệu quả khoản đầu tư cho giáo dục. Hiện tôi thấy tính hiệu quả trong sử dụng tiền đầu tư còn thấp, cả ở tầm vĩ mô, tức là hệ thống cũng như tầm vi mô, tức là cơ sở các trường.
Nguồn lực của ta có hạn. Cần phải quan tâm làm sao phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống giáo dục. Nếu chỉ khoa nào lo khoa đó, bộ môn nào lo bộ môn đó, trường nào lo trường đó, khối nào lo khối đó thì khó phát triển được. Ngay cả ở tầm hệ thống cũng chưa tìm kiếm được giải pháp để phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống dẫn đến kết quả chưa đi lên. Đấy là điều bản thân tôi băn khoăn nhất.
Trong bảng xếp hạng của tạp chí Times Higher Education có 7 trường ĐH Pakistan, một nước nghèo và lạc hậu hơn Việt Nam. Ông nghĩ sao về điều này?
- Quan điểm của tôi vẫn là phải làm từ từ. Tôi cho rằng có thể đầu tư có mũi nhọn để hỗ trợ cho các trường ĐH thực sự bứt lên, trong đó có những ngành mũi nhọn để đưa đất nước đi sâu vào nền kinh tế tri thức, tác động ngay lên sự phát triển của đất nước.
Khác với chuyện đầu tư một vài trường nhưng phát triển những lĩnh vực chưa tác động hiệu quả ngay lên nền kinh tế thì tôi không tán thành. Đó vẫn là bệnh thành tích thôi. Chúng ta không cần những trường trang sức làm đẹp cho nền giáo dục trong khi cả hệ thống vẫn trì trệ, kém phát triển mà cần tác động thực chất, giúp nền kinh tế đi tắt đón đầu…
Trân trọng cảm ơn ông!