Hiện nay số công dân Việt Nam mang hai quốc tịch không phải hiếm và đã có trường hợp người Việt Nam mang hai quốc tịch vi phạm pháp luật trên lãnh thổ Việt Nam bị xử lý. Việc xử lý đối với người mang hai quốc tịch phạm tội có gì khác biệt? Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, PV Đại Đoàn Kết Online đã có cuộc trao đổi với Luật sư Ngô Anh Tuấn, Đoàn Luật sư Hà Nội.
PV: Thưa ông, công dân Việt Nam có 2 quốc tịch, sử dụng 2 hộ chiếu có trái với quy định?. Trong trường hợp nào công dân Việt Nam được quyền có hai quốc tịch?
LS Ngô Anh Tuấn: Về nguyên tắc, công dân Việt Nam chỉ được mang 1 quốc tịch, nhưng theo quy định hiện hành tại Điều 4 về nguyên tắc quốc tịch, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 thì “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”.
Công dân Việt Nam có quyền có 2 quốc tịch trong trường hợp sau: Chủ tịch nước cho phép giữ quốc tịch nước ngoài khi xin nhập quốc tịch Việt Nam, xin trở lại quốc tịch Việt Nam, trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi, có quốc tịch nước ngoài nhưng vẫn giữ quốc tịch Việt Nam, trẻ em là người nước ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì có quốc tịch Việt Nam (mà vẫn giữ quốc tịch nước ngoài), người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã có quốc tịch nước ngoài, nhưng chưa mất quốc tịch Việt Nam...
Trường hợp người mang hai quốc tịch, vi phạm pháp luật trên lãnh thổ Việt Nam thì cơ chế xử lý đối với những người phạm tội như thế nào?
- Theo Khoản 1, Điều 5 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật này được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) được quy định như sau: “Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”.
Cụ thể, đối với người Việt phạm tội có 2 quốc tịch thì nguyên tắc xử lý như sau: người phạm tội trước hết vẫn là công dân Việt Nam nên sẽ áp dụng pháp luật Việt Nam để xử lý hành vi phạm tội.
Trong trường hợp nước họ mang quốc tịch thứ 2 mà quốc gia này áp dụng chế độ bảo hộ công dân và nước này có ý kiến can thiệp thì lúc đó sẽ giải quyết theo một trong hai trường hợp: nếu người đó thuộc đối tượng được miễn trừ ngoại giao thì sẽ được giải quyết theo tòa án quốc tế, áp dụng theo con đường miễn trừ ngoại giao; nếu không được miễn trừ thì vẫn được giải quyết bình thường, như một người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ quốc gia Việt Nam thì do pháp luật Việt Nam xử lý.
Từ số vụ người Việt Nam mang hai quốc tịch vi phạm pháp luật gia tăng, theo ông có nên siết chặt lại quy định cho phép công dân VN mang hai quốc tịch không?
- Không cần thiết! Vì khi người Việt phạm tội mang 2 quốc tịch hay người nước ngoài vi phạm pháp luật Hình sự Việt Nam cũng đều bị xử lý nghiêm minh. Việc công nhận việc công dân có hai hay nhiều quốc tịch cũng là điều phù hợp và cần thiết trong xu thế hội nhập hiện nay.