Xuất khẩu thủy sản: Đối diện thách thức mới
Bức tranh xuất khẩu nông lâm thủy sản càng về cuối năm càng nhiều khởi sắc. Trong đó nhiều nhóm ngành hàng như cà phê, gỗ... tăng trưởng ấn tượng. Tuy nhiên, xuất khẩu thủy sản lại đối diện những thách thức mới.
Tăng trưởng nhiều mặt hàng chủ lực
Số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NNMT) cho biết, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 8 ước đạt 5,71 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch 8 tháng đầu năm lên 45,37 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2024.
Trong bức tranh chung, xuất khẩu nông lâm thuỷ sản của Việt Nam tăng trưởng tích cực, đặc biệt ở các nhóm hàng có giá xuất khẩu tăng mạnh như cà phê, hạt tiêu, hạt điều và gỗ. Tuy nhiên, một số mặt hàng như gạo và rau quả lại chứng kiến giá trị giảm dù khối lượng duy trì tăng trưởng.

Đặc biệt, xuất khẩu cà phê tiếp tục bứt phá mạnh mẽ và lập kỷ lục mới về giá trị. Riêng tháng 8/2025, khối lượng đạt 95 nghìn tấn, tương ứng 429,1 triệu USD. Lũy kế 8 tháng năm 2025, xuất khẩu cà phê đạt 1,2 triệu tấn, trị giá 6,42 tỷ USD, tăng 8,7% về khối lượng và tăng tới 59,1% về giá trị so với cùng kỳ 2024.
Nhóm thuỷ sản và đồ gỗ cũng vẫn giữ đà tăng trưởng xuất khẩu. Cụ thể, xuất khẩu thủy sản trong tháng 8/2025 đạt 950 triệu USD, đưa tổng giá trị 8 tháng lên 7,03 tỷ USD, tăng 11,5%.
Về thị trường xuất khẩu nông lâm thuỷ sản trong 8 tháng của năm 2025, Bộ NNMT cho biết, châu Á vẫn giữ thị phần lớn nhất với 43,1%, tiếp đến là châu Mỹ 23,2% và châu Âu 14,6%. Ở cấp độ thị trường tính theo quốc gia, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản là ba thị trường lớn nhất cho xuất khẩu nông lâm thuỷ sản của Việt Nam. Cụ thể, Hoa Kỳ chiếm 20,9%, Trung Quốc 19% và Nhật Bản 7,1%. Xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng 8,1%, sang Trung Quốc tăng 2,6% và sang Nhật Bản tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 8 tháng, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 77,7 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu đạt 45,37 tỷ USD, tăng 12,8%, hoàn thành gần 70% kế hoạch năm.
Theo ông Trần Gia Long - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Tài chính (Bộ NNMT) bối cảnh kinh tế thế giới tháng 8/2025 tiếp tục gây nhiều khó khăn: Mỹ áp thuế đối ứng 50% với Ấn Độ; đàm phán Mỹ - Trung bế tắc; xung đột quân sự và bất ổn chính trị tại Indonesia, Campuchia, Thái Lan, Myanmar tác động tiêu cực đến thương mại nông sản toàn cầu.
“Trong bối cảnh đó, nhiều nền kinh tế lớn chuyển hướng nới lỏng chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức với các quốc gia xuất khẩu nông sản, trong đó có Việt Nam” - ông Long nêu quan điểm.
Đối diện thách thức
Trong bối cảnh thị trường thế giới nhiều biến động, thiên tai cực đoan xảy ra tại Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, căng thẳng thương mại kéo dài, kết quả này được đánh giá là tín hiệu tích cực.
Với đà tăng trưởng này, Bộ NNMT nhận định, xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam nhiều khả năng sẽ duy trì mức tăng khả quan trong những tháng còn lại của năm, để hướng tới 65-70 tỷ USD cho cả năm 2025.
Tuy nhiên, bên cạnh những thách thức hiện có, cùng các vấn đề nội tại như sản xuất manh mún, liên kết chuỗi giá trị yếu và năng lực chế biến hạn chế, thì xuất khẩu nông, lâm, thủy sản Việt Nam cũng đang gặp những thách thức mới.
Đáng chú ý, ngày 1/9, Quốc hội Mỹ ban hành quy định liên quan đến Đạo luật Bảo vệ động vật có vú ở biển (MMPA), yêu cầu tất cả sản phẩm thủy sản nhập khẩu phải đáp ứng tiêu chuẩn bảo vệ tương đương Mỹ.
Trước đó, ngày 26/8, Cơ quan Khí quyển và Đại dương Mỹ (NOAA) đã có thư gửi Cục về việc thông báo kết quả xem xét hồ sơ công nhận tương đương với Đạo Luật bảo vệ thú biển của Mỹ (MMPA). Trong đó, công nhận tương đương đối với một số sản phẩm thủy sản được khai thác từ các nghề của Việt Nam. Đồng thời từ chối công nhận đối với một số sản phẩm thủy sản được khai thác từ 12 nhóm nghề của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ.
Cụ thể các loài thủy sản năm trong 12 nghề cá của Việt Nam bị đánh giá không tương đương gồm: cá song (lưới rê, lưới vây, lưới kéo đơn/cặp); ghẹ và các loài giáp xác (lưới rê, lưới kéo đơn/cặp, đăng đáy, lưới đặt); cá mực, cá đáy hỗn hợp, cá bơn, cá đối, cá hồng, cá sole (lưới rê, lưới kéo đơn/cặp, câu tay, câu vàng)...
Lý do từ chối công nhận tương đương đối với 12 nghề cá được xác định là: Có sự hiện diện của các loài thú biển được bảo vệ theo mục 1387 (f)(3) của MMPA; ngư cụ có nguy cơ cao tương tác với thú biển và thiếu cơ chế giảm sát, báo cáo việc đánh bắt không chủ ý các loài thú biển; các biện pháp giảm thiểu tỷ lệ khai thác không chủ ý xuống dưới giới hạn cho phép còn nhiều hạn chế.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (Vasep), các loài cá nằm trong 12 nghề cá của Việt Nam bị Mỹ đánh giá không tương đương hiện đang có giá trị xuất khẩu ước khoảng 511 triệu USD, chiếm 24% tỷ trọng xuất khẩu thủy sản vào Mỹ, trong đó, riêng cá ngừ 387 triệu USD.
“12 nghề cá bị liệt kê không tương đương đều là những sản phẩm chủ lực của thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ. Nếu từ nay đến 1/1/2026, chúng ta không có các giải pháp kịp thời để nộp lại thông tin mới liên quan đến các nghề cá bị từ chối sau ngày 1/1/2026 để được xem xét lại thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ngành thủy sản Việt Nam” – ông Nguyễn Hoài Nam – Tổng Thư ký Vasep nhận định.
Nói về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ NNMT Phùng Đức Tiến cho hay, Bộ NNMT đã xây dựng kế hoạch triển khai 12 nhóm nhiệm vụ trọng tâm, hướng tới được công nhận tương đương toàn phần để giữ vững thị phần tại thị trường này. Bên cạnh đó, chính sách thuế đối ứng của Mỹ, các yêu cầu truy xuất nguồn gốc cũng như quy định an toàn thực phẩm ngày càng khắt khe từ EU và Nhật Bản tiếp tục là những rào cản mà ngành cần chủ động thích ứng.
Trong bối cảnh đó, Thứ trưởng Bộ NNMT cho rằng, ngành nông nghiệp Việt Nam cần kiên định mục tiêu, linh hoạt trong giải pháp và sáng tạo trong triển khai, với sự phối hợp chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương, giữa cơ quan quản lý, doanh nghiệp và nông dân.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, Mỹ đưa ra quy định liên quan đến Đạo luật Bảo vệ động vật có vú ở biển (MMPA) dựa trên ba nguyên nhân chính: ngư cụ có nguy cơ cao gây tương tác với thú biển; thiếu cơ chế giám sát và báo cáo khai thác ngoài ý muốn; biện pháp giảm thiểu chưa hiệu quả. Đây là những vấn đề kỹ thuật chuyên ngành, đòi hỏi phân tích chi tiết từng nghề cá, ngư cụ và phương thức quản lý để chứng minh nỗ lực cải thiện.