Cảm nhận về “giếng đá ong & chim bồng chanh”
Tôi và Đăng Ngọc biết nhau từ ngày cùng ở báo Quân đội nhân dân. Chúng tôi đồng niên - đồng nghiệp, đồng sở thích bóng bàn. Cùng nghiệp báo, nhưng khác “nghề”. “Nghề” của tôi là thơ. “Nghề” của anh là bình luận quốc tế.

Làm ở phòng Thời sự quốc tế, ít khi được xuống đơn vị quân đội. Anh tâm sự, “đọc thơ Lai nhiều nên lây nhiễm từ lúc nào không biết. Nhưng không có thực tiễn đời sống bộ đội như anh, khó chưng cất thành thơ”. Nên được dịp ăn ngủ cùng chiến sĩ, anh mừng như cơ hội vàng. Cuối năm 1978, anh là phóng viên đầu tiên lên Cao Lộc - Lạng Sơn viết bài khi bắt đầu manh nha không khí căng thẳng ở biên giới. Và rồi chiến tranh biên giới tháng 2-1979, Đăng Ngọc cũng là phóng viên có mặt ở Lạng Sơn sớm nhất, từ chiều 16-2-1979. Ngoài làm tin, viết phóng sự chiến trường, anh còn phản ánh qua thơ. Một loạt bài thơ đăng trên báo Quân đội nhân dân và các báo khác như: Nắm tay Lê Đình Trinh, Hoa chạc chìu, Ở Nguyên Bình, Vạt chuối rừng, con suối nhỏ và tôi, Nét bình minh thân quen... Có những câu mà tôi còn nhớ, “Nếu không có những giờ chiến thắng / Sao gặp lại bình minh trong bao nét thân quen”.
Nhưng rồi sự nghiệp của anh có bước chuyển - sang làm Báo Đại đoàn kết. Chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Chỉ gặp anh trên mặt báo với những bài viết mang tính thời cuộc, hoặc bút ký nhân vật như “Người chắp bút Điếu văn truy điệu Bác Hồ”; những bài trò chuyện cuối tuần với những người nổi tiếng như Anh hùng phi công Trần Hanh, người của phía bên kia như, vị Thủ tướng chính quyền Sài Gòn Vũ Văn Mẫu, tướng Nguyễn Hữu Có...
Với trách nhiệm quản lý tờ báo, anh quên hẳn văn thơ. Nhưng cái “tôi” của anh hôm nay khác với cái “tôi” của những ngày trước. Nghỉ hưu, anh mới cho ra đời tiểu thuyết “Chắp tình” do Nhà xuất bản Hội nhà văn cấp phép. Cuốn tiểu thuyết nói về vấn đề hoà giải dân tộc. Đó là kết tinh vốn sống của anh qua các cuộc gặp gỡ, tiếp cận với một số tướng lĩnh phía bên kia trong những “trại cải tạo - lao động” sau 30/4/1975.
Và nay anh cho ra mắt tản văn “Giếng đá ong & chim Bồng chanh”. Đó là hơn 30 bài chọn lọc trong số cả trăm bài thuộc thể loại này đã đăng báo. Giếng đá ong là biểu tượng cội nguồn - làng quê trung du, nơi anh sinh ra và lớn lên. Chim Bồng chanh, hay còn gọi là chim Bói cá, có đôi cánh màu xanh biếc, giọng hót vang là biểu tượng cho ước mơ bay xa và khát khao tìm kiếm ước vọng sống của một chàng trai mới lớn nơi thôn dã. Để rồi hôm nay đang tập làm “công dân số” của Thủ đô.
Anh coi “ký ước là thứ cất trong rương thơm”. Đó là mạch nguồn không vơi cạn cho sáng tác của mình. Lật tìm ký ức - đánh thức những kỷ niệm thầm kín qua những hình tượng gợi cảm: Chỉ một bông hoa, chiếc lá, ánh trăng sao huyền ảo… mà len lỏi vào những mạch ngầm cảm xúc, làm sống động giác quan, khơi gợi chiêm nghiệm.
Đăng Ngọc biết chọn cho mình một khoảng lùi cần thiết để nhìn sự việc. Lùi xa, tưởng như chỉ còn ngắm cái bóng mờ, nhưng mọi thứ dường như lại được thấu tỏ từ sự ảo mờ xa xăm ấy. Niềm thương, nỗi nhớ cội nguồn là mạch ngầm, tâm hồn tác giả đưa ta trở về quá khứ và định vị lại các giá trị sống. Mỗi câu chuyện nhỏ như: “Giàn bầu thương nhớ”; “Tiếng chim nơi khu vườn khoáng đạt”; “Hoa gạo đốt lòng ta ”; “Kẹo mạ - đặc sản tuổi thơ”… đều đong đầy những triết lý yêu thương, mà trong bộn bề cuộc sống có khi chúng ta quên mất. Mỗi bài, tác giả đều giãi bày những trực cảm tinh tế về tâm hồn, tính cách, số phận, lối sống của những người thân yêu, xóm giềng. Qua đó toát lên sự thuần hậu, bình dị mà thanh cao. Người quê anh lao động vất vả nhưng không lấm lem, cùng cực, không quê mùa.
Ông bà, bố mẹ, anh chị em của tác giả có họ với cụ Bùi Bằng Đoàn - một nhân sĩ, trí thức yêu nước, đều là những tấm gương tiêu biểu về lối sống nhường nhịn, ôn hòa, phân minh. Cũng qua đó tác giả muốn trình hiện với người đọc thái độ sống và phong cách sống, cách ứng xử của con người trong gia đình ở một vùng quê khi mà núi rừng chưa “có điện thay sao”. Chẳng phải dừng lại thật lâu, đọc qua tiêu đề mỗi bài viết là đã phần nào cảm nhận được những hình thái của cuộc sống, những lay động của vạn vật, dù là bé bỏng út ít, dù là mong manh, dù là thinh lặng khiêm nhường hay đơn sơ thanh đạm. Tác phẩm như một bản nhạc đồng quê, bản hòa âm trong trẻo, tươi sáng.
Cái đích đầu tiên và quan trọng nhất trong mỗi sáng tác văn học là tính thẩm mỹ: Phải tạo ra được hình ảnh đẹp, sinh động; cách diễn đạt trong sáng; ngôn từ giản dị, gần gũi. Đọc tản văn của Đăng Ngọc thấy có đủ các yếu tố đó và giúp bạn đọc nhìn ra vẻ đẹp của sự yêu thương, tận hiến, rung động trước những điều bình dị của cuộc sống thôn quê.
Chắc chắn sẽ tìm thấy ở tản văn này nhiều điều lý thú hơn nữa, tạo sự cộng cảm và lan truyền cảm hứng sáng tạo tới bạn đọc…