Hôm nay (1/8), nhân kỷ niệm 290 năm ngày sinh nhà bác học Lê Quý Đôn (1926-1784), Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thái Bình, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học về cuộc đời và sự nghiệp của ông.
Quảng cảnh hội thảo.
60 bản tham luận của các nhà nghiên cứu gửi tới hội thảo đã thêm một lần nữa khẳng định tài năng, sự uyên bác, đóng góp trên nhiều lĩnh vực của danh nhân Lê Quý Đôn. Trong đó, ông được nhìn nhận, đánh giá là người có công đầu trong việc bảo vệ và thực thi chủ quyền của Việt Nam ở hai Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa…
Cụ thể, trong tham luận “Lê Quý Đôn và những ghi chép về biển đảo”, GS-TS Hồ Sỹ Quý, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện thông tin Khoa học xã hội (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam) đã trích dẫn những ghi chép, mô tả của Lê Quý Đôn trong sách “Phủ biên tạp lục” về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; phản ánh những sự việc cụ thể thể hiện các triều đại phong kiến Việt Nam đã thực sự chiếm hữu, thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này.
GS-TS Hồ Sỹ Quý phát biểu tại hội thảo.
Theo GS-TS Hồ Sỹ Quý, tác phẩm Phủ biên tạp lục gồm 6 quyển, được Lê Quý Đôn hoàn thành vào khoảng năm 1776. Tác phẩm này hiện có 8 dị bản (5 dị bản hiện được lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm; 3 dị bản đang được lưu giữ tại Pháp). Hai đoạn chép về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong quyển II (Hình thế núi, sông,thành lũy, trị sở, đường sá, bến đò, nhà trạm hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam).
Cụ thể, theo ghi chép, mô tả của Lê Quý Đôn trong sách thì: khi ấy từ Cù lao Ré (huyện đảo Lý sơn ngày nay) đi 3 ngày 3 đêm bằng thuyền câu nhỏ thì đến Hoàng Sa (Đại Trường Sa). Quần đảo có nhiều cù lao, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc đi vài canh thì đến.
Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng dài,ước hơn 30 dặm (hơn 12 km), bằng phẳng rộng lớn,nước trong suốt đáy. Quần đảo có vô số Yến sào, hàng vạn loài chim và các sinh vật biển. Thuyền nước ngoài thường tránh bão ở đảo này.
Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cho biết, khi đó chúa Nguyễn đã cho lập đội Hoàng Sa, gồm 70 suất là người ở xã An Vĩnh. Mỗi năm cứ tháng 2 đi, tháng 8 về, mang lương ăn đủ 6 tháng, đi bằng thuyền 3 ngày 3 đêm thì đến.
Mỗi lần ra đây, đội Hoàng Sa thường thu được những hiện vật từ những con tàu đắm như gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hoàn bạc, khối đồng, khối thiếc, khối chì, sũng ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên hay các sinh vật trên đảo như vỏ đồi mồi,vỏ hải ba, hải sâm hột ốc.
“Đại Nam nhất thống toàn đồ”, tài liệu do GS-TS Hồ Sỹ Quý cung cấp tại hội thảo.
Theo nhà bác học Lê Quý Đôn, đội Bắc Hải được thành lập sau đội Hoàng Sa, không cố định về quân số, người tình nguyện từ thôn Tứ Chính ở Bình Thuận hặc ở xã Cảnh Dương. Khi ra, những người tình nguyện này được cấp giấy, miễn tiền sưu cùng các tiền tuần đò,có nhiệm vụ đi thuyền ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên để tìm hiện vật trên các tàu đắm và các loại sinh vật biển. Đội Bắc Hải cũng do cai đội Hoàng Sa kiêm quản.
Liên quan đến sự kiện năm 1753, Triều Thanh (Càn Long) từng coi Hoàng Sa là thuộc An Nam, sách của Lê Quý Đôn viết: “Hoàng Sa chính gần phủ Liêm Châu đảo Hải Nam, người đi thuyền có lúc gặp thuyền đánh cá Bắc quốc, hỏi nhau ở trong biển. Tôi (Lê Quý Đôn) đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương, Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hóa nói rằng: Năm năm Kiền Long thứ 18 (1753) có 10 tên quan nhân xã An Vĩnh, đội Cát Liềm, huyện Chương Nghĩa, phủ Quảng Ngãi nước An Nam, ngày tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa tìm kiếm các thứ. Có 8 tên lên bờ,chỉ để lại 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt giây thuyên, dạt vào Thanh Lan cảng. Quan ở đây xét thực, đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu sai cai bạ Thuận Hóa là Thức Lượng hầu làm thư trả lời”
Dẫn các nguồn sử liệu, GS-TS Hồ Sỹ Quý cho biết: năm 1816, vua Gia Long chính thức cho cắm cờ trên quần đảo Hoàng Sa và đo thuỷ trình.
Cũng trong năm này, khâm sứ Pháp tại Đông Dương Jules Brevie đã ra lệnh thành lập cơ quan hành chính quản lý quần đảo Hoàng Sa và cho dựng trên quần đảo một tấm bia có dòng chữ “Cộng Hòa Pháp-Vương quốc An Nam-Quần đảo Hoàng Sa, 1816”.
Đến năm 1834, vua Minh Mạng cử đội trưởng giám thành Trương Phúc Sỹ cùng 20 thủy binh ra Hoàng Sa vẽ bản đồ. Năm 1837 thủy quân triều Nguyễn đi Hoàng Sa đã vẽ thành bản đồ 12 hòn đảo. Năm1838, thủy quân triều Minh Mạng đã vẽ được một bản đồ chung tổng thể về Hoàng Sa.
Cũng trong năm1838, vua Minh Mạng đã hoàn thiện và công bố chính thức bản đồ quốc gia gọi là “Đại Nam nhất thống toàn đồ”, trong đó thể hiện chi tiết bờ biển và hải đảo của Việt Nam, ghi rõ Hoàng Sa và vạn lý Trường Sa Sa.
Theo GS-TS Hồ Sỹ Quý, căn cứ vào những ghi chép của Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục, thì: Trước khi vua Gia Long cho cắm cờ, dựng bia ở Hoàng Sa năm 1816, thì đã có ít nhất 63 năm (tính từ năm 1753, khi 10 thủy binh hải đội Hoàng Sa gặp bão, dạt vào cảng Thanh Lan, được vua Càn Long nhà Thanh-Trung Quốc trả về), Việt Nam đã liên tục thực thi chủ quyền tại đây…