Mới đây, Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội đã có công văn hướng dẫn cụ thể về trả lương cho người lao động trong thời gian ngừng việc do dịch bệnh Covid-19. Cụ thể, việc chi trả cần căn cứ vào quy định tại Điều 99 của Bộ luật Lao động năm 2019 và Văn bản số 1064/LĐTBXH - QHLĐTL của Bộ LĐ-TB&XH để xác định trả lương ngừng việc cho người lao động.
Cơ chế chi trả lương
Theo đó, trường hợp người lao động ngừng việc do phải đi cách ly tập trung theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền hoặc do doanh nghiệp (hoặc bộ phận của doanh nghiệp) dừng hoạt động vì bị phong tỏa do dịch bệnh Covid-19 thì nếu thời gian ngừng việc từ 14 ngày làm việc trở xuống thì tiền lương ngừng việc được thỏa thuận không thấp hơn mức lương tối thiểu; nếu thời gian ngừng việc trên 14 ngày làm việc thì tiền lương ngừng việc do hai bên thỏa thuận nhưng phải bảo đảm tiền lương ngừng việc trong 14 ngày đầu tiên không thấp hơn mức lương tối thiểu.
Trường hợp doanh nghiệp gặp khó khăn về nguồn nguyên vật liệu, thị trường, dẫn đến không bố trí đủ việc làm cho người lao động, người sử dụng lao động có thể tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động theo Điều 29 Bộ luật Lao động, đảm bảo các quy định:
Người lao động tạm thời chuyển làm công việc khác so với hợp đồng lao động không được quá 60 ngày làm việc cộng dồn trong 1 năm; người sử dụng lao động phải báo trước cho người lao động ít nhất 03 ngày làm việc; người lao động được trả lương theo công việc mới, nếu tiền lương này công việc mới thấp hơn tiền lương của công việc cũ thì được giữ nguyên tiền lương của công việc cũ trong thời hạn 30 ngày làm việc.
Trường hợp thời gian ngừng việc kéo dài ảnh hưởng đến khả năng chi trả của doanh nghiệp, thì người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận tạm hoãn hợp đồng lao động không hưởng lương hoặc hưởng lương nếu hai bên có sự thỏa thuận (theo Điều 30 Bộ luật Lao động). Trường hợp này phải được sự đồng ý bằng văn bản của người lao động.
Trường hợp doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, dẫn tới buộc phải cắt giảm chỗ làm việc, thực hiện tổ chức lại lao động: Công đoàn cơ sở tham gia xây dựng, thực hiện phương án sử dụng lao động, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động (theo Điều 36 hoặc Điều 42 Bộ luật Lao động).
Trong trường hợp này doanh nghiệp phải chi trả trợ cấp cho người lao động (theo Điều 46 hoặc Điều 47 Bộ luật Lao động), Công đoàn cơ sở hướng dẫn người lao động hoàn thiện thủ tục hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp (nếu có).
Người lao động bị cách ly vì Covid-19
Như đã đề cập, trong trường hợp người lao động đang làm việc bình thường mà phải ngừng việc do cách ly vì dịch bệnh (không do lỗi của người lao động lẫn người sử dụng lao động) thì người lao động được nhận lương ngừng việc với mức do hai bên thoả thuận nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng.
Điều đặc biệt hơn, theo khoản 2 Điều 130 Bộ luật Lao động năm 2012, nếu nghỉ làm vì cách ly mà ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, thậm chí là gây thiệt hại thì người lao động cũng không phải bồi thường.
Chế độ bảo hiểm của người lao động bị cách ly vì Covid-19
Liên quan đến chế độ bảo hiểm, tại Công văn 422/BHXH-CSXH ngày 13/02/2020, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã đề xuất Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đồng ý đối với những người bị cách ly y tế để phòng dịch theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền được hưởng chế độ ốm đau trong thời gian cách ly.
Về hồ sơ hưởng chế độ ốm đau:
Trường hợp điều trị nội trú: Giấy ra viện;
Trường hợp điều trị ngoại trú: Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng Bảo hiểm xã hội hoặc giấy ra viện có chỉ định của y, bác sỹ điều trị cho nghỉ thêm sau thời gian điều trị nội trú;
Trường hợp cách lý tại cơ sở: Giấy chứng nhận thời gian thực hiện cách ly y tế do cơ sở thực hiện cách ly y tế cấp;
Trường hợp cách ly tại nhà: Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng bảo hiểm xã hội do trạm y tế xã, phường, thị trấn nơi người lao động cư trú cấp.
Về chế độ ốm đau của người lao động, theo Điều 26 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, người lao động sẽ được nghỉ chế độ ốm đau:
30 ngày/năm nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm;
40 ngày/năm nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm;
60 ngày/năm nếu đã đóng từ đủ 30 năm trở lên mà làm việc trong điều kiện bình thường.
Với những ngành nghề, công việc nặng nhọc, độc hại thì được nghỉ thêm 10 ngày/năm.
Mức hưởng chế độ ốm đau được tính theo tháng và bằng 75% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Nếu nghỉ theo ngày thì mức trợ cấp ốm đau một ngày bằng mức trợ cấp theo tháng chia cho 24 ngày.