Chiều 27/5, Quốc hội nghe tờ trình về dự án Luật Tình trạng khẩn cấp.
Báo cáo tại phiên họp, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang cho biết, việc triển khai xây dựng, ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp nhằm thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; khắc phục hạn chế, bất cập trong thực tiễn, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về tình trạng khẩn cấp, qua đó góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Theo ông Giang, Luật quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khần cấp; các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp; tổ chức thi hành Nghị quyết ban bố, Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tình trạng khần cấp.
Dự thảo Luật được bố trí thành 6 chương, với 42 điều. Cụ thể Chương I gồm 8 điều (từ Điều 1 đến Điều 8), quy định về phạm vi điều chỉnh; nguyên tắc hoạt động trong tình trạng khần cấp áp dụng Luật Tình trạng khẩn cấp và các luật có liên quan; các hành vi bị nghiêm cấm; hợp tác quốc tế về tình trạng khẩn cấp).
Chương II gồm 4 điều (từ Điều 9 đến Điều 12) quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban bố, công bố, gia hạn, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; nội dung của Nghị quyết ban bố, Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp; chấm dứt hiệu lực của các văn bản pháp luật về tổ chức thi hành Nghị quyết ban bố, Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp.
Luật quy định: Căn cứ diễn biến thảm họa, dịch bệnh, tình hình quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và trên cơ sở đề nghị của các bộ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban bố tình trạng khẩn cấp, trong trường hợp Ủy ban Thường vụ không thể họp ngay thì Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.
Chương III gồm 12 điều (từ Điều 13 đến Điều 24), quy định về các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa lớn về thiên tai, ô nhiễm môi trường, sự cố bức xạ và hạt nhân, dịch bệnh, trong tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, về quốc phòng; các biện pháp khắc phục hậu quả; huy động nguồn lực, cứu trợ, hỗ trợ; chế độ, chính sách đối với tổ chức, cá nhân tham gia ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp.
Nhằm phân cấp, phân quyền và bảo đảm linh hoạt để ứng phó kịp thời với các tình huống trong tình trạng khẩn cấp, Luật quy định: Trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định và báo cáo cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Quốc hội trong thời gian gần nhất để phù hợp với quy định tại Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025; Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tinh quyết định áp dụng các biện pháp mà pháp luật hiện hành chưa quy định và báo cáo cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Thủ tướng Chính phủ trong thời gian sớm nhất để phù hợp với quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025.
Chương IV gồm 8 điều (từ Điều 25 đến Điều 32), quy định về tổ chức thi hành Nghị quyết ban bố, Lệnh công bố tình trạng khẩn cấp; trách nhiệm thi hành các biện pháp trong tình trạng khẩn cấp; điều động lực lượng vũ trang đến địa bàn bạn bố tình trạng khẩn cấp; trang bị và sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ; biện pháp xử lý người bị tạm giữ; lực lượng thị hành trong tình trạng khẩn cấp; áp dụng pháp luật về điều kiện bất khả kháng.
Luật quy định: Trong trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước điều động lực lượng vũ trang đến địa bàn ban bố tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an điều động lực lượng thuộc quyền đến địa bàn ban bố tình trạng khẩn cấp về thảm họa lớn, dịch bệnh để hỗ trợ các lực lượng tại chỗ cứu hộ, khắc phục hậu quả của thảm họa, dịch bệnh hoặc để ôn định, duy trì an ninh và trật tự, an toàn xã hội”
Chương V gồm 8 điều (từ Điều 33 đến Điều 40), quy định về trách nhiệm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ, ngành trung ương, chính quyền địa phương và của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Chương VI gồm Điều 41 và Điều 42, quy định bãi bỏ Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000 và thời điểm có hiệu lực của Luật Tình trạng khẩn cấp.