Dáng cau
Làng tôi nằm nép mình dưới chân núi ở Quảng Ngãi nhưng cũng chẳng cách biển bao xa. Nơi đây được mệnh danh là xứ sở ngàn cau. Nhà nào cũng trồng cau, nhiều thì cả vườn có đôi ba cây được trồng rải rác từ trước sân hoặc dọc theo hàng rào cuối vườn. Thân cau vươn cao thẳng tắp lên bầu trời đầy nắng gió của xứ sở miền Trung, dáng thanh mảnh mà rắn rỏi. Mỗi cây cau như một phần trong đời sống của làng quê, không ồn ào, không khoe sắc, cứ âm thầm đứng đó, cao vút như dáng vẻ người dân quê chân chất, cần cù và bền bỉ.
Trong ký ức tuổi thơ tôi, cau gắn liền với biết bao kỷ niệm. Những trưa hè oi ả, lũ con nít thường trốn mẹ ra vườn nhặt từng mo cau rụng. Chúng tôi cũng bắt chước trò kéo mo cau trong bài hát “Người phu kéo mo cau” được nghe đi nghe lại từ chiếc đài cũ mèm của nhà bà Tư hàng xóm. Một đứa hí hửng ngồi lên chiếc mo cau, tay ôm chắc vành mo, hai ba đứa hì hục kéo đi, rồi cứ thế vừa la ó, cười đùa.
Chúng tôi thay phiên nhau để ai cũng được trải nghiệm trò chơi này. Có khi đang được kéo đi êm xuôi thì mo cau đứt, cả bọn té nhào ra sân. Có khi chúng tôi cắt mo cau thành chiếc thuyền nhỏ, lon ton chạy lên bờ kênh gần nhà thả trôi theo dòng nước.
Mấy đứa con gái thì đủng đỉnh hái từng nắm hoa ngũ sắc đặt trên chiếc mo cau để thành chiếc thuyền hoa xinh đẹp. Mo cau trôi dần xa bờ, mang theo cả những bông hoa xinh cùng những ước mơ của những đứa trẻ quê.
Tôi vẫn nhớ chiếc quạt mo đặt trên đầu giường dùng cho những đêm hè đứng gió, hay chiếc quạt bé tẹo ở chái bếp dùng để thổi lửa. Đấy là những chiếc quạt nhỏ xinh được ông ngoại cắt tỉa cẩn thận. Cứ nhặt được chiếc mo cau nào đẹp, ngoại lại chẻ ra làm quạt lớn, quạt nhỏ. Ngày bé, những lần về ngoại, ngồi trước hiên nhà nhìn nắng, nhìn mấy trái mận, trái xoài rồi ngước lên hỏi ngoại “không biết khi nào mới ăn được ngoại ha?”. Ngoại chỉ cười, xoa đầu, tay cầm chiếc quạt mo cau mộc mạc phe phẩy. Gió làm dịu đi cái nắng quê và đưa tôi vào giấc ngủ trưa yên lành.
Bây giờ ngoại đã về miền mây trắng, mỗi lần về thăm quê, ghé nhà ngoại, nhìn chiếc giường tre bên hiên nước mắt lại chực trào, nhớ lắm những ngày hè năm xưa còn có ngoại, có làn gió mát từ chiếc quạt mo cau.
Tôi vẫn nhớ từ thuở nhỏ, mâm cúng của ba tôi giản dị đơn sơ, giữa nén nhang thơm phảng phất trong nhà, mâm cúng lúc nào cũng không thể thiếu cặp trầu cau.
Mỗi dịp cúng bái, ba thường giao tôi nhiệm vụ chọn vài trái cau vừa tươi vừa chắc, rửa thật sạch lau thật khô trước khi đặt lên bàn thờ. Sau này tôi lại thấy những mâm cau hiện diện trong những dịp cưới hỏi. “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, ông bà ta thường nói thế.
Thấp thoáng sau hàng cau là vài mái nhà lợp ngói đỏ, ẩn hiện trong làn khói lam chiều bảng lảng. Khói bay lên từ những căn bếp nhỏ, quấn quýt như chưa muốn rời mái nhà thân thuộc. Mùi khói rơm, khói củi gợi lên hương vị ấm áp của bữa cơm chiều đạm bạc đầy yêu thương mà giữa phố thị chẳng thể tìm được. Có tiếng chó sủa từ xa, tiếng trẻ con gọi nhau í ới, và đâu đó, tiếng mẹ ru con khe khẽ hoà vào gió, chạm đến từng ngóc ngách ký ức tuổi thơ.
Lòng tôi cũng khấp khởi mừng vui vì ngày nay, cau không chỉ còn là ký ức mà đã có giá trị kinh tế rõ rệt. Trái cau được thu mua làm kẹo và được thêm vào các món canh, nước hầm. Ngày xưa, mo cau chỉ dùng làm quạt, làm đồ chơi ngày nay còn được tận dụng làm chén, đĩa sinh học – vừa thân thiện với môi trường, vừa giữ được cái hồn mộc mạc của làng quê Việt. Những sản phẩm này chẳng những được sử dụng trong nước mà còn xuất khẩu sang các nước khác, thay thế các sản phẩm nhựa dùng một lần. Người dân quê tôi nhiều gia đình đã vươn lên làm giàu từ cây cau trên mảnh đất miền Trung đầy nắng, gió và cả bão lũ mỗi năm.
Cây cau vẫn lặng lẽ vươn mình, vững vàng trước nắng gió quê nhà. Dù có bao nhiêu đổi thay, dù tôi có đi xa đến đâu, cau vẫn là một phần ký ức không thể thay thế. Mỗi lần về quê, đứng dưới tán cau, nghe gió rì rào qua tàu lá, tôi lại thấy mình như trở về những ngày vô lo – nơi có ngoại, có trò chơi tuổi thơ, và có cả một vùng quê yên bình còn in mãi trong tim.