Nghề báo, trong phạm vi ảnh hưởng sâu rộng đối với xã hội, đằng sau mỗi bài báo là số phận con người. Hoạt động nghề nghiệp của người làm báo liên quan đến mỗi con người, mỗi cộng đồng, tác động đến toàn bộ xã hội. Sinh thời nhà báo Hữu Thọ, khi trò chuyện trên ấn phẩm Tinh hoa Việt (báo Đại Đoàn kết), đã luôn luôn nhắc đến một câu nói: “Các ông chủ bút nên nhớ, có khi một đô la lợi nhuận ông thu được thì xã hội phải bỏ ra hàng trăm, hàng nghìn đô la để xóa đi những gì đen tối mà ông gieo vào xã hội”. Đạo đức nghề báo bởi thế, càng phải được đề cao hơn cả!
Đạo đức nghề báo có chuẩn mực chung cho các nhà báo ở tất cả các quốc gia, lại có những chuẩn mực riêng của từng quốc gia, thậm chí là từng toà soạn báo. Những phẩm chất đạo đức nghề báo chính yếu nhất như chân thật, khách quan, lòng trung thành… bao hàm nội dung giống nhau nhưng mỗi quốc gia, mỗi cơ quan báo chí lại có những yêu cầu cụ thể riêng trong từng thời kỳ lịch sử. Trên thế giới, các nền báo chí chuyên nghiệp như Anh, Pháp, Mỹ, Đức… đã xây dựng cho riêng mình những bộ quy tắc về đạo đức nghề nghiệp từ rất lâu đời.
Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, đã có hơn 100 nước có những bộ quy ước bằng văn bản được thông qua bởi các tổ chức nghề nghiệp và được thừa nhận khi hành nghề. Ví dụ nước Mỹ có “Các quy tắc đạo đức báo chí” 14 được Hội các chủ bút báo chí Mỹ thông qua năm 1923 và “Bộ quy tắc đạo đức” của Hiệp hội chủ nhân các Đài phát thanh thông qua năm 1929. Các tổ chức quốc tế và khu vực cũng xây dựng riêng cho mình những bản quy ước, ví dụ như được biết đến nhiều nhất là bản “Những nguyên tắc quốc tế và đạo đức nghề nghiệp báo chí” do Tổ chức quốc tế các nhà báo (OIJ) khởi thảo, được các hội nhà báo thành viên thông qua và được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận.
Hiện nay, hầu hết các cơ quan báo chí, tòa soạn ở các nước phát triển trên thế giới đều có Bộ Quy tắc hướng dẫn cho các phóng viên, biên tập viên của mình trong hoạt động nghề nghiệp. Ở Việt Nam, đạo đức nghề nghiệp của người làm báo được xác lập trên cơ sở thống nhất với báo chí thế giới và dựa trên cơ sở thực tiễn hoạt động báo chí Việt Nam. Năm 1995, Đại hội lần thứ 6 Hội Nhà báo Việt Nam đã thông qua “Bản quy ước về tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của báo chí Việt Nam”. Đến Đại hội lần thứ 8 (2005), Hội nhà báo Việt Nam đã chỉnh lý, sửa đổi thành 9 điều “Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam”.
Đến tháng 12/2016, Hội Nhà báo Việt Nam công bố ban hành “10 quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam”. Trong đó, điều 3 nhấn mạnh đến việc: “Hành nghề trung thực, khách quan, công tâm, không vụ lợi. Bảo vệ công lý và lẽ phải. Không làm sai lệch, xuyên tạc, che giấu sự thật, gây chia rẽ, kích động xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tình đoàn kết, hữu nghị giữa các 8 quốc gia, dân tộc.” Điều 4, đề cao việc: “Nêu cao tinh thần nhân văn, tôn trọng quyền con người. Không xâm phạm đời tư, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân.” Ở điều 10, “Những người làm báo Việt Nam cam kết thực hiện những quy định trên, đó là bổn phận và nguyên tắc hành nghề, là lương tâm và trách nhiệm của người làm báo.” 10 quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam sau 6 năm ra đời đã góp phần điều chỉnh hành vi của nhà báo, ngăn ngừa những hành vi không đúng đắn.
Tuy nhiên, đúng như tên gọi, 10 quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam không mang tính chất cưỡng chế mà đòi hỏi tính tự giác trên cơ sở trách nhiệm, lương tâm và lòng tự trọng của nhà báo. Căn cứ vào những tiêu chuẩn đạo đức này và dựa vào tính chất của những hành vi, mỗi nhà báo sẽ phải biết tự điều chỉnh hành vi của mình trong hoạt động tác nghiệp.
Năm 1971, Cynthia Leslie Cohn, là một nữ sinh 17 tuổi học tại trường trung học Potter Steward (Mỹ) đã bị một nhóm người hãm hiếp và sau đó nữ sinh này đã qua đời. Truyền thông ngay lập tức nhảy vào vụ việc để đưa tin. Thomas Wassell, một biên tập viên của hãng truyền hình WSB-TV, đã gặp thư ký phiên toà xét xử các bị can vào năm 1972 và hỏi xin một một bản copy của văn bản truy tố đối với các bị can trong đó có tên của nạn nhân. Thomas đã công khai tên tuổi của nạn nhân trong bản tin tối. Martin Cohn, cha của nạn nhân đã kiện hãng tin WBS và cả biên tập viên vì hành vi công khai danh tính con gái ông ta. Trải qua nhiều phiên xét xử, quan điểm cuối cùng của toà án tối cao đưa ra là bác bỏ đơn của Cohn và xử thắng cho Cox, với lập luận rằng, việc thu thập thông tin của biên tập viên Thomas Wassell là từ một văn bản pháp lý và trong một phiên toà công khai cho nên hành vi này được bảo vệ bởi tu chính án số 01 về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận. Tuy nhiên, không phải ai cũng may mắn như Thomas Wassell.
Năm 2010, vợ chồng diễn viên điện ảnh Brad Pitt và Angelina Jolie đã thắng tờ báo News Of The World trong vụ kiện đưa thông tin sai sự thật và xâm phạm đời tư của họ. Báo News Of The World phải bồi thường thiệt hại và đăng tải lời xin lỗi đối với Jolie và Pitt. Tháng 1/2013, doanh nhân Ned RocknRoll – chồng của nữ diễn viên Kate Winslet cũng đã thắng trong một cuộc chiến pháp lý với tờ The Sun, nhằm buộc tờ báo này ngừng ý định đăng tải tấm hình “bán khỏa thân” của anh.
Cũng năm 2013, Ernesto Mauri, giám đốc điều hành công ty Mondadori, chủ sở hữu tờ tạp chí Closer ở Pháp đã bị truy tố vì tội “xâm phạm đời tư” do cho phép đăng các bức ảnh ngực trần của công nương Anh Catherine, vợ hoàng tử Williams, vào tháng 9/2012. Đầu năm 2014, tạp chí Closer, tờ báo đưa tin Tổng thống Pháp có bồ nhí đã bị tòa yêu cầu bồi thường cho Bộ trưởng Văn hóa Pháp trong một vụ kiện liên quan đến xâm phạm đời tư. Tháng 3/2014, tạp chí Closer cũng bị buộc phải trả cho nữ diễn viên Julie Gayet 20.700 USD vì đăng tải những tấm hình riêng tư của cô nhằm cáo buộc “mối quan hệ ngoài luồng” của nữ diễn viên này với Tổng thống Pháp…
Đưa ra các ví dụ trên để thấy, khai thác thông tin trên báo chí, luôn luôn ở lằn ranh của quyền tự do báo chí, quyền thông tin với việc xâm phạm quyền riêng tư của công dân. PGS.TS. Tạ Ngọc Tấn, cho rằng: “Ranh giới xác định rất khó, giữa sự thật khách quan với việc bảo vệ quyền con người. Kể cả vấn đề nhân vật đồng ý cho báo chí phỏng vấn đưa tin lên nhưng việc đưa tin như thế nào để bảo vệ quyền lợi, lợi ích, quyền con người đấy cũng là vấn đề mang tính trách nhiệm của người làm báo với công chúng.”
Trong hoạt động báo chí, nhà báo được quyền khai thác, cung cấp và sử dụng thông tin nhằm phục vụ lợi ích của công chúng, để phục vụ quyền tiếp cận thông tin, bao gồm quyền được thông tin của công dân theo các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình đã được bảo vệ theo quy định của pháp luật.
Theo PGS.TS Đinh Thị Thúy Hằng, đời sống riêng tư và bí mật đời tư của cá nhân được pháp luật bảo vệ và là quyền của mỗi công dân. Tuy nhiên, hiện nay nhiều thông tin về cá nhân và đời tư được khai thác trên báo chí và các trang mạng xã hội với những mục đích khác nhau. Có những thông tin đời tư đưa ra công chúng với mục đích vinh danh một tấm gương hoặc tạo sự nổi tiếng nhanh chóng cho một tên tuổi. Nhưng có thông tin cá nhân tiết lộ trên mặt báo đã gây hậu quả cho cuộc sống, ảnh hưởng đến hình ảnh và danh dự của người bị đưa tin, vi phạm quyền riêng tư của công dân.
Đạo đức nghề nghiệp thì không phải lúc nào cũng chỉ có lý lẽ. Quyền riêng tư, nhân phẩm và quyền con người phải được đặt cao hơn quyền thông tin trong quá trình làm ra tác phẩm báo chí.
PGS.TS. Nguyễn Thị Trường Giang trong cuốn Pháp luật và Đạo đức báo chí cho rằng: Mọi người đều có quyền được tôn trọng bí mật đời tư bao gồm những thông tin liên quan đến cuộc sống riêng tư, gia đình, sức khoẻ và những điều tương tự khác. Đa số các bản quy tắc đạo đức nghề báo trên thế giới đều cho rằng nhà báo có nghĩa vụ tôn trọng quyền con người và đảm bảo sự riêng tư của mỗi cá nhân.
Đạo đức nghề nghiệp thì không phải lúc nào cũng chỉ có lý lẽ. Quyền riêng tư, nhân phẩm và quyền con người phải được đặt cao hơn quyền thông tin trong quá trình làm ra tác phẩm báo chí.
Những ví dụ dẫn ra ở phần trên về việc các cơ quan báo chí trên thế giới bị xử phạt vì xâm phạm quyền riêng tư cho thấy, nếu ý thức về quyền riêng tư ở Việt Nam của mỗi cá nhân lớn hơn, có lẽ án phạt với các cơ quan báo chí sẽ rất nhiều. Phổ biến mỗi ngày, tràn lan trên các phương tiện thông tin đại chúng là hình ảnh đời tư nghệ sĩ, là mỗi vụ án, mỗi sự việc được khai thác đến cạn kiệt không thương tiếc ở tất cả các góc độ mà phần lớn trong số ấy là sự hồn nhiên tiết lộ danh tính, hình ảnh và nhiều thông tin cá nhân khác.
Nhiều thông tin về cá nhân, đời tư đang được khai thác trên báo chí và mạng xã hội với nhiều mục đích khác nhau, thông tin cá nhân, đời tư được đưa lên mặt báo làm ảnh hưởng tới đời sống và vi phạm quyền riêng tư. Đã rất cần việc nghiêm túc vạch ra gianh giới cho báo chí, phân định giữa sự tự do báo chí và quyền riêng tư của cá nhân. Báo chí được quyền tự do đưa tin đó là nguyên tắc nền tảng trong xã hội dân chủ nhưng phạm vi, phương thức, của việc đưa tin phải tuân thủ những quy định pháp luật và đạo đức sao cho đảm bảo không xâm hại quyền riêng tư của cá nhân.
Để phục vụ mục đích của mình, một số các phóng viên và toà soạn báo luôn cố gắng tiếp cận săn lùng tin tức từ những người nổi tiếng, những người được xã hội quan tâm. Có những phóng viên bất chấp nguyên tắc của báo chí, sử dụng những thiết bị nghe lén, ghi hình lén, theo dõi để có thể có được thông tin mình cần.
Dễ thấy nhất và phổ biến nhất hiện nay là việc các tờ báo điện tử lấy thông tin từ trang cá nhân của những người nổi tiếng để đăng tải. Nghệ sĩ ưu tú Minh Vượng, người vẫn thường viết tản văn, làm thơ hoặc chia sẻ những bức ảnh, những bài viết về món ăn trên trang cá nhân đã vô cùng bức xúc khi những thông tin đó sau đó xuất hiện trên nhiều trang báo. Sau nhiều lần có các phản ứng dữ dội với các toà soạn, gần đây, mỗi khi post bất cứ hình ảnh, bài viết nào lên, chị đều ghi rất rõ việc không được sử dụng nếu không được chị cho phép. Ở đây, câu chuyện cho thấy thông tin của mọi người, nhất là người nổi tiếng đã đăng công khai trên mạng xã hội có còn là quyền riêng tư nữa hay không?
Đương nhiên, khi đã trở thành người của công chúng, thì thường nhận được sự quan tâm đặc biệt của xã hội. Báo chí chạy theo độc giả, trước áp lực thông tin buộc phải có những chiêu thức để câu khách. Chưa kể rằng nhiều người nổi tiếng khôn khéo dùng truyền thông để tạo dư luận. Cho nên mặt trái của sự nổi tiếng đó là họ phải chịu chấp nhận mất đi sự riêng tư. Trở thành người của công chúng cũng đồng nghĩa với việc họ đã gián tiếp đồng ý để cho cả những chuyện “không tốt đẹp” của mình được công khai. Dù bất kỳ khi nào, và hơn ai hết bước chân vào thế giới người nổi tiếng, người của công chúng, những người đó cần tự điều chỉnh mình và hiểu rằng họ luôn chịu giám sát của xã hội thông qua báo chí.
Trở lại với câu chuyện của thời đại internet như hiện nay, việc gìn giữ các trang cá nhân trên mạng thì đâu là ranh giới rõ ràng để xác định cái gì là riêng tư và cái gì thì không?
Luật Báo chí có quy định không được đăng, phát ảnh của cá nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó (trừ ảnh thông tin các buổi họp công khai, sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn nghệ thuật, thể dục thể thao, những người có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của tòa án, những người phạm tội trong các vụ trọng án đã bị tuyên án). Như vậy, nhà báo khi thu thập, công bố thông tin đời tư người khác cũng phải được sự đồng ý của người đó. Báo chí đăng tin đời tư người khác nhưng nếu không xin phép người đó thì bị coi là vi phạm pháp luật. Trong trường hợp nhân vật đăng thông tin trên trang cá nhân vẫn phải được sự đồng ý của họ mới có thể sử dụng thông tin trên báo chí.
Mặt khác cũng có những ranh giới mờ, phụ thuộc vào sự lựa chọn của những người của công chúng. Một người nổi tiếng không thể để chế độ mở (public) trên facebook của mình rồi cãi rằng đó là chuyện riêng của cô trên tài khoản cá nhân, trong khi cô có lúc lại dùng chính tài khoản ấy để thu hút fan, hay quảng cáo cho album mới của mình. Trong câu chuyện cụ thể như trường hợp Nghệ sĩ Minh Vượng, khi chị viết rõ yêu cầu trên trang cá nhân là đề nghị báo chí không tự ý dẫn lại thì báo chí phải tôn trọng quyền cá nhân của chị.
Báo chí là một nghề, và như mọi nghề nghiệp trên đời, nghề nào cũng có đạo đức nghề nghiệp riêng của nghề đó. Nhưng đạo đức nghề nghiệp của người làm báo đòi hỏi đặc biệt hơn, khó khăn hơn và quan trọng hơn. Đằng sau mỗi bài báo là số phận con người, là sự tác động vào dư luận xã hội. Làm báo không phải chỉ có đúng và sai, đạo đức nhà báo đôi khi còn quan trọng và lớn hơn cả kỹ năng nghề nghiệp. Một nhà báo giỏi nghiệp vụ chưa chắc đã là một nhà báo tử tế. Tôn trọng sự thật, trung thực, khách quan chưa đủ, còn phải đặt việc tôn trọng phẩm giá con người, tính nhân văn lên trên hết thảy. Đạo đức nhà báo là việc phải trau dồi mỗi ngày, mới có thể trở thành những người làm báo không đi ngược lại với những quyền cơ bản của con người.
Báo chí là một nghề, và như mọi nghề nghiệp trên đời, nghề nào cũng có đạo đức nghề nghiệp riêng của nghề đó. Nhưng đạo đức nghề nghiệp của người làm báo đòi hỏi đặc biệt hơn, khó khăn hơn và quan trọng hơn. Đằng sau mỗi bài báo là số phận con người, là sự tác động vào dư luận xã hội. Làm báo không phải chỉ có đúng và sai, đạo đức nhà báo đôi khi còn quan trọng và lớn hơn cả kỹ năng nghề nghiệp.