Đề án 1956 với nội dung chính là dạy nghề cho lao động nông thôn, dân tộc thiểu số, được triển khai nhằm khắc phục tình trạng thiếu đất sản xuất, cũng như việc chuyển đổi cơ cấu lao động, nhưng chính sách này chưa phát huy hết hiệu quả.
Cần có những khảo sát về nhu cầu trước khi đào tạo nghề cho lao động dân tộc thiểu số.
Hỗ trợ vẫn không mặn mà
Theo Thông tư 58/2017/TT-BTC hướng dẫn một số chính sách hỗ trợ tài chính cho tổ chức, đơn vị sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số tại khu vực miền núi, vùng đặc biệt khó khăn người thuộc hộ đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) nghèo, mức hỗ trợ tối đa là 4 triệu đồng/người/khóa học; người DTTS nhận mức hỗ trợ tối đa 3 triệu đồng/người/khóa học.
Đồng thời hỗ trợ tiền ăn 30.000 đồng/người/ngày thực học. Hỗ trợ tiền đi lại 200.000 đồng/người/khóa học nếu địa điểm đào tạo ở xa nơi cư trú từ 15 km trở lên.
Quy định này nhằm tạo động lực để khuyến khích người DTTS đi học nghề xong thực tế không phải bây giờ Nhà nước mới có chính sách hỗ trợ mà trước đó đã có hàng loạt những chính sách hỗ trợ thế nhưng một bộ phận không nhỏ người DTTS vẫn quay lưng với chính sách ưu đãi này.
Anh Dương Văn Hỏn, xóm Pú Dô, xã Quang Hán, huyện Trà Lĩnh học nghề sửa chữa máy nông nghiệp. Tuy nhiên, do trình độ có hạn, nên việc tiếp thu kiến thức không dễ. Thêm nữa, thời gian học không nhiều, nên rất khó khăn để “hành nghề” đã học.
Anh Hỏn cho biết: “Ở xã thì chẳng có mấy nhà đầu tư được máy cơ giới phục vụ sản xuất nông nghiệp, trong khi có đến chục người học, lấy đâu ra máy để sửa chữa. Muốn hành nghề thì phải là thợ lành nghề, nhưng với tay nghề non yếu từ lớp học ngắn hạn, liệu có thể sửa một cách thông thạo để khách hàng tin tưởng hay không?”. Vì những lý do này, nên cuối cùng anh Hỏn lại quay về làm nghề nông truyền thống.
Đây không phải là trường hợp cá biệt ở Cao Bằng bởi theo Trưởng phòng Quản lý dạy nghề, Sở LĐTB&XH tỉnh Cao Bằng, Đàm Văn Thủy, sau 6 năm thực hiện Đề án 1956, toàn tỉnh đã đào tạo nghề được trên 25.200 người.
Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề phi nông nghiệp còn nhiều bất cập, người lao động chưa sống được bằng nghề. Nội dung và chất lượng đào tạo nghề còn mang nặng tính hình thức, chưa sát với thực tế. Một số địa phương không duy trì được nghề sau đào tạo, gây lãng phí thời gian của người dân và kinh phí đào tạo.
Tại Phú Thọ mặc dù năm 2016 đã đào tạo được trên 20.000 người tuy nhiên theo Sở LĐTB&XH trong quá trình thực hiện cũng bộc lộ không ít khó khăn, bất cập cần được tháo gỡ, đó là: Cơ cấu đào tạo nghề cho lao động nông thôn chưa đáp ứng với mục tiêu đề ra, chủ yếu là dạy nghề nông nghiệp, tỷ lệ đào tạo nghề phi nông nghiệp thấp (chiếm khoảng 30%), một số nghề chất lượng đào tạo còn hạn chế, lao động sau học nghề đa số tự tạo việc làm nên có nghề học xong do thiếu vốn, thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm đã không phát huy được.
Bên cạnh đó hàng năm nguồn kinh phí của trung ương bố trí cho Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn rất thấp, trong khi cơ chế điều hành phân bổ kinh phí liên tục thay đổi: Năm 2012 kinh phí giao trực tiếp cho các cơ sở dạy nghề; năm 2013 giao cho Sở LĐTB&XH làm chủ đầu tư; năm 2014 - 2015 giao cho Sở LĐTB&XH là chủ đầu tư đào tạo nghề phi nông nghiệp, Sở NN&PTNT là chủ đầu tư đào tạo nghề nông nghiệp; năm 2016 đưa vốn đào tạo nghề lồng ghép vào chương trình NTM, giao cho cấp cơ sở tự quyết định song lại không có hướng dẫn cụ thể nên rất khó vận dụng.
Vốn NTM chi cho nhiều nội dung, trong khi mức phân bổ hàng năm có hạn, xã loại 3 được hơn 80 triệu đồng, xã loại 2 hơn 100 triệu đồng, xã đặc biệt khó khăn được 335 triệu đồng. Chính vì vậy mặc dù huyện đã yêu cầu các xã căn cứ tình hình thực tế chủ động phân bổ, bố trí vốn NTM cho công tác đào tạo nghề nhưng quá thời hạn vẫn chưa có xã nào đăng ký.
Đào tạo nghề gắn với nhu cầu
Đào tạo nghề phi nông nghiệp cho đồng bào DTTS thời gian qua không hiệu quả. Đây là một thực tế không phải đến giờ mới được chỉ ra mà đã được chỉ ra ngay sau khi Quyết định 1956 triển khai.
Nguyên nhân được các địa phương, Bộ LĐTB&XH nhận diện song việc tìm ra giải pháp khả thi cho vấn đề này đến nay vẫn là dấu hỏi.
Có thể thấy chưa có một quốc gia nào trên thế giới có được hệ thống chính sách hỗ trợ phát triển vùng đồng bào DTTS đầy đủ và chi tiết như Việt Nam.
Tuy nhiên theo các chuyên gia, chính sách là một chuyện, còn đồng bào DTTS có tiếp cận và tận dụng được chính sách để khởi nghiệp thành công hay không lại là một câu chuyện khác.
Do sự đặc thù về hệ thống chính sách dân tộc hiện nay nằm ở nhiều bộ, ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau nên để chính sách thực sự trở thành nguồn lực và động cơ thúc đẩy khởi nghiệp thành công ở vùng đồng bào DTTS cần phải có sự kết nối, điều phối hiệu quả của nhiều Bộ, ngành.
Cùng với đó trước khi đào tạo ngành chức năng cũng như địa phương phải định nghĩa lại bản chất của khởi nghiệp và xác định lại vai trò của khởi nghiệp ở khu vực đặc thù này.
Khởi nghiệp đối với khu vực này bên cạnh việc tạo công ăn việc làm, giảm nghèo và phát triển kinh tế còn đi kèm với mục tiêu bảo tồn sự đa dạng văn hóa, xây dựng sự tự tin và hỗ trợ sự hòa nhập của các nhóm DTTS vào dòng chảy khởi nghiệp chung của quốc gia. Có như thế mới khuyến khích được bà con học nghề, bám và sống bằng nghề.