Đoàn kết dân tộc trên cơ sở đồng thuận cao về lợi ích
* Nhà sử học Dương Trung Quốc chia sẻ những giá trị và bài học từ lịch sử.
(Ảnh: Di Linh).
PV: Thưa Nhà sử học Dương Trung Quốc, bây giờ mà nói lại một câu chuyện lịch sử cũ vốn đã thuộc lòng, chúng ta có thể nói thêm gì nữa?
Nhà sử học Dương Trung Quốc: Cách mạng tháng Tám là câu chuyện cách đây đã gần 70 năm. Phải nói là lúc đó, những người làm Cách mạng đã rất có ý thức từ trong hiện thực lịch sử sớm nhận ra bài học để phát triển lâu dài. Chỉ một năm sau, khi kỷ niệm 1 năm Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, nhà cách mạng Trường Chinh đã đặt vấn đề phải tổng kết lịch sử để tìm ra bài học. Nhờ vào đó mà thời ấy chúng ta đã có thể phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân vào một thời kỳ lịch sử cụ thể và vượt qua những thử thách rất lớn. Đoàn kết trên cơ sở một sự đồng thuận cao về lợi ích. Cả dân tộc chỉ có một mục tiêu rõ ràng, một lợi ích rõ ràng. Đó là giành độc lập dân tộc.
Chúng ta nên nhớ rằng ngay khi Quốc dân đại hội còn đang họp trên Tân Trào để ra lệnh Tổng khởi nghĩa thì Hà Nội chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương đã khởi nghĩa rồi. Những nhà lãnh đạo khởi nghĩa ở Hà Nội nói rằng họ quán triệt tinh thần của Chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Nhưng đây là hành động cho một mục tiêu rõ ràng là giành độc lập dân tộc. Cho nên kể cả ở Sài Gòn khoảng cách xa như thế nhưng theo Hồi ức của cụ Trần Văn Giàu là có nhận được thông tin gì đâu nhưng hành xử và hành động hết sức là thống nhất với nhau. Thậm chí có chi tiết trong Nam không nhận được bài Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ tịch qua làn sóng điện. Khi ông Trần Văn Giàu buộc lòng phải lên diễn thuyết thì sau đó, điều quan trọng nhất, rất mừng là sau này khi nhận được Tuyên ngôn độc lập thấy nội dung căn bản là thống nhất. Như vậy, có thể thấy ý chí thống nhất là rất quan trọng. Ý chí có được không chỉ ở góc độ tổ chức mà ở chỗ thống nhất mục tiêu vì độc lập dân tộc rất sáng tỏ.
Nghĩa là khi đặt lợi ích dân tộc lên cao thì chúng ta tìm được sức mạnh, thưa ông?
- Bài học Cách mạng tháng Tám nhìn vào ngày nay rất sáng tỏ. Thậm chí tháng 11 năm 1945 để bảo đảm đại đoàn kết dân tộc, Đảng Cộng sản Đông Dương còn rút vào bí mật, tuyên bố tự giải tán chỉ để công khai một Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. Rõ ràng khi đặt lợi ích dân tộc lên cao thì chúng ta tìm được sức mạnh. Vấn đề cơ bản là phải tìm được tiếng nói đồng thuận với nhân dân. Cho nên bài học cơ bản của Cách mạng tháng Tám đến ngày hôm nay thể hiện ở việc tạo ra mục tiêu đại đoàn kết nhưng phải có môi trường dân chủ thì mới phát huy được tất cả lòng yêu nước của người dân phục vụ cho mục tiêu đúng đắn. Mỗi người đều phải biết hy sinh cái riêng của mình vì lợi ích chung. Việc Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào bí mật tuyên bố tự giải tán – một Đảng được hình thành trong môi trường rất là khắc nghiệt, bao nhiêu người hy sinh mới xác lập được vị trí ấy - thế mà sẵn sàng tuyên bố tự giải tán (cho dù chỉ là hình thức) để hợp lòng dân, để tìm một sự đoàn kết rộng lớn hơn.
Hồi đó rất nhiều Bộ trưởng là Việt Minh sẵn sàng từ bỏ vị trí của mình để giao cho những nhân vật khác, để mở rộng khối đại đoàn kết trong Chính phủ. Việc ngay kể cả đối với một số đảng phái đối lập thì Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dùng sách lược là mời vào tham gia Quốc hội để dùng thực tiễn và sức mạnh của toàn dân trở thành yếu tố thúc đẩy sự phát triển cách mạng, loại trừ những phần tử cơ hội, thu hút những người mà còn có thể có sự dao động. Tôi cho đấy là những bài học rất lớn là tìm cách thuyết phục người dân vì lợi ích quốc gia và hy sinh cả chính quyền lợi của tổ chức.
Bài học để có lòng dân, Đảng dù có phải rút vào bí mật cũng phải làm, đối với ngày hôm nay có ý nghĩa thế nào?
- Đảng rút vào bí mật mà còn có thể lãnh đạo cách mạng thành công. Vai trò của Đảng thể hiện quan trọng ở sự sáng suốt và tính gương mẫu. Sáng suốt vạch ra con đường đúng và gương mẫu thì người dân sẽ theo.
Có thời cơ, có tầm nhìn sáng suốt lại phải xem nhân dân đã sẵn sàng chưa.
Nhưng lòng yêu nước của nhân dân thì ngày nay so với trong lịch sử có khác gì không, thưa ông?
- Thời đại thay đổi, mọi cái đều khác. Mặc dù vậy có những thứ bất biến, lòng yêu nước là bất biến, lẽ phải là bất biến, công lý là bất biến. Nhưng chúng ta nhìn vào lịch sử ấy để chúng ta có lòng tin. Lòng tin ấy phải dựa trên niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp chung, đặc biệt phải tạo dựng được niềm tin của nhân dân đối với nhà nước.
Thưa ông, vào thời điểm này, làm thế nào để tạo dựng được niềm tin cho nhân dân, để an lòng dân?
- Phải nhắc lại một câu nói của cụ Hồ: Dĩ bất biến ứng vạn biến. Đây là nguyên lý chung trong ứng xử của con người phương Đông. Nhưng khi ứng biến với tư cách là một nhà lãnh đạo quốc gia thì ứng biến ở đây được thể hiện là nguyên lý hành xử để có thể vượt qua được tất cả những thay đổi của cuộc sống mà chúng ta không từ bỏ mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu cuối cùng là bất biến.
Còn để có thể thực hiện mục tiêu ấy thì làm sao cho tất cả những cái hành xử của chúng ta phù hợp với hoàn cảnh. Lúc mềm mỏng, lúc cương quyết. Nhưng điều quan trọng nhất là dù mềm mỏng hay cương quyết cũng đều phải thu phục được lòng tin của nhân dân. Năm 1946, Bác Hồ ký Hiệp định sơ bộ 6-3, với việc chấp nhận những điều kiện mà người dân bình thường rất là khó chia sẻ. Ví dụ ta chấp nhận ta không đòi hỏi là một quốc gia độc lập mà là một quốc gia tự do trong khối Liên hiệp Pháp và có lộ trình để giành độc lập cho phù hợp với hoàn cảnh lúc đó, với mục tiêu là để gạt Trung Hoa quốc dân đảng lúc đó ra khỏi nước ta, để có những bước đi tiếp theo. Lúc đó, lòng dân rất là phân vân vì không hiểu tại sao cụ Hồ lại chấp nhận như thế. Ta nhớ là Chính phủ đã phải có một cuộc mít tinh rất lớn diễn ra ở Nhà hát Lớn, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp phải đứng ra giải trình với dân là tại sao phải làm như thế. Rồi Chủ tịch Hồ Chí Minh phải đứng lên nói với quốc dân đồng bào rằng: Hồ Chí Minh không bao giờ bán nước.
Đấy, những nhà chính trị để lấy được lòng tin của nhân dân đã phải làm như vậy. Đường lối của Nhà nước phải được chia sẻ để tìm sự đồng cảm với nhân dân, xứng đáng với sự giao phó của nhân dân.
Có một câu hỏi rất trăn trở trong thời kỳ này là làm thế nào tập hợp sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, thưa ông?
- Khối đại đoàn kết dân tộc phụ thuộc không ít vào vai trò của người cầm ngọn cờ lãnh đạo. Thực ra khi nói đến đoàn kết dân tộc là nói đến một nguyên lý. Đoàn kết dân tộc là điều hết sức cụ thể, đoàn kết trên nền tảng nào? Rõ ràng nếu trên nền tảng lợi ích mà mọi người phải chia sẻ hoặc sẵn sàng hy sinh là bảo vệ độc lập tự do của dân tộc thì tôi nghĩ không phải chỉ dân tộc Việt Nam mà dân tộc nào cũng thế. Nhưng muốn như thế thì phải có một ngọn cờ, có lực lượng tập hợp, những người lãnh đạo không chỉ thấm nhuần ý chí ấy mà còn biết cách tập hợp. Đó là cả một nghệ thuật. Đối với người phương Đông nếu nhìn lại lịch sử thì một trong những yếu tố thu hút được lòng tin chính là tính gương mẫu của người lãnh đạo. Xã hội truyền thống chỉ cần có một ông vua sáng, một minh quân là có thể tập hợp được mọi lực lượng. Xã hội hiện đại vẫn cần thiết có người lãnh đạo tài năng nhưng trên nền tảng phù hợp với những giá trị hiện đại là dân chủ, phải phát huy dân chủ thì mới tập hợp lực lượng được. Đó là điều khác với xã hội truyền thống.
Từ những bài học của lịch sử, chúng ta hơn bao giờ hết phải đoàn kết. Chúng ta không hoá giải những vấn đề quá khứ, trên tinh thần hoà giải dân tộc, thì chúng ta tự đánh mất một phần sức mạnh. Lúc này hơn bao giờ hết phải cố kết dân tộc lại, phải hoá giải một số những vấn đề của quá khứ, phải hướng vào mục tiêu trước mắt.
Lúc này chúng ta phải đọc lại những gì cha ông đã nói một cách thấm thía nhất, để bỏ đi tất cả những thói hư tật xấu, để không thể cứ làm cán bộ là tham nhũng vơ vét cả đống tài sản lớn.
Xin trân trọng cảm ơn ông!