Làm thế nào để bảo tồn và phát triển tiếng Việt trong cộng đồng? Câu hỏi được đặt ra tại cuộc tọa đàm về tài liệu dạy, học tiếng Việt cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài do Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài (Bộ Ngoại giao) tổ chức sáng 12/8.
Tọa đàm về tài liệu dạy, học tiếng Việt cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Cho đến thời điểm này, có 2 bộ giáo trình giảng dạy tiếng Việt được biên soạn chính thức dành cho việc học tiếng Việt của người Việt Nam ở nước ngoài là: Tiếng Việt vui và Quê Việt. Cô giáo trẻ Lena (Ukraina) cho rằng, nhờ có 2 cuốn giáo trình này cô có thêm sự tham khảo, hỗ trợ rất nhiều cho công tác giảng dạy tiếng Việt.
Đây cũng là ý kiến của giảng viên người Đức Anke Fridel-Nguyễn (ĐH Humboldt, CHLB Đức). Nhưng, khác với Lena, người đồng nghiệp đến từ nước Đức của chị cho “rằng hay thì thật là hay” nhưng chị sẽ dựa trên giáo trình này để soạn những bài giảng riêng, phù hợp với đối tượng học tập của mình là các sinh viên Đức yêu tiếng Việt và kể cả trẻ em Việt tại Đức.
Ý kiến này cũng được giáo viên trường tiểu học Thống Nhất (tỉnh Savanakhet, Lào) Lê Thị Chiến chia sẻ khi bảo, chưa thống nhất việc lựa chọn 1 trong 2 bộ giáo trình. Khối 1 và 2 học theo giáo trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Còn khối 3,4 và 5 thì lại học theo giáo trình Tiếng Việt vui. Mỗi giáo trình có một thế mạnh riêng nhưng cũng có những sở đoản nhất định.
“Nếu giáo trình của Bộ có giải thích từ khó ở dưới mỗi bài thì cuốn Tiếng Việt vui lại không làm được điều này”- bà Chiến đưa ra nhận xét.
Nói về những giáo trình nào có thể sử dụng được trong quá trình dạy tiếng Việt, bà Đinh Thị Kim Nguyệt (Yukon, Canada) cho rằng: Bất kỳ giáo trình nào cũng dạy được hết. Nhưng, một trong những tình trạng đáng ngại nhất là giáo viên không được đào tạo bài bản. Có những tình nguyện viên giỏi tiếng Việt lại chưa giỏi tiếng bản ngữ; trong điều kiện trẻ em kiều bào lại không thông thạo tiếng mẹ đẻ.
Là một người có nhiều đóng góp cho việc quảng bá văn hóa Việt tại Yukon, bà Nguyệt cho rằng, mỗi địa bàn có một khó khăn riêng. Lấy ví dụ ở Yukon chỉ có 30 ngàn người Việt nhưng diện tích lại rộng lớn, vì vậy để mời được các em đi học là cả một khó khăn, nhưng nhờ sự kiên trì nên số lượng người Việt, đặc biệt là trẻ em Việt theo học tiếng Việt đã ngày một nhiều hơn. Nhưng có những địa bàn cũng ở Canada có số lượng kiều bào lên đến 100 ngàn dân nhưng chỉ có những gia đình có truyền thống gìn giữ văn hóa Việt mạnh mẽ mới cố giữ tiếng Việt cho con cháu - bà Nguyệt cho biết.
Thay vì xuất bản những cuốn sách in nặng nề nhưng khó vận chuyển thì nên "chuyển giáo trình sang dạng DVD với những hình ảnh hoạt hình sinh động, vừa kết hợp giải thích về văn hóa Việt luôn”- bà Nguyệt bày tỏ mong muốn với những GS chuyên soạn sách giáo khoa tiếng Việt và những nhà quản lý giáo dục.
Nói thêm về vấn đề này, cô giáo Lê Thị Chiến cho rằng sức hấp dẫn của những bộ sách giáo khoa tiếng Việt dành cho trẻ em còn thấp. Lấy ví dụ cuốn Tiếng Việt vui, cô cho biết: Tranh ảnh minh họa thì mờ nhạt, giáo cụ trực quan lại không có. Học về các loại hình tranh mà chỉ in đen trắng nên học sinh chẳng biết cách phân biệt tranh sơn dầu, sơn mài, tranh Đông Hồ hay Hàng Trống…
Một cuộc tọa đàm khá thiết thực với những tiếng nói từ cơ sở như thế rất nên được lắng nghe để con em kiều bào có thể tiếp cận tiếng Việt một cách dễ dàng hơn ở nơi xa Tổ quốc.