Hiện đại hóa đội tàu viễn dương: 'Siêu đề án' gây băn khoăn
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang dự thảo đề án hiện đại hóa đội tàu và tổ chức khai thác viễn dương với tổng dự toán đến năm 2030 hơn 26.000 tỷ đồng. Theo đánh giá của giới chuyên gia, việc đầu tư phát triển kinh tế biển là cần thiết, song ý tưởng xây dựng một đội tàu khai thác viễn dương với nguồn nhân lực như hiện nay là quá mạo hiểm.
Với đội ngũ thủy thủ và phương tiện tàu thuyền hiện tại, rất khó vươn khơi.
Tiếp tục ưu đãi cho khai thác thủy sản
Theo dự thảo đề án, từ nay đến năm 2020 sẽ tổ chức hợp tác khai thác để đưa 150 - 200 tàu cá và 1.500 đến 2.000 ngư dân đánh bắt tại vùng biển của Brunei, Papua New Guinea.
Giai đoạn 2020- 2030, ngoài duy trì lượng tàu và thuyền viên ở hai vùng biển trên, sẽ tổ chức đưa thêm 200-250 tàu cá và 2.500 đến 3.000 ngư dân đánh bắt ở vùng biển khu vực Đông Nam Á; Papua New Guinea, Palau, Micronesia và các nước khác trong vùng biển do Ủy ban nghề cá Trung Tây Thái Bình Dương quản lý (WCPFC).
Còn sau năm 2030, ngoài duy trì lượng tàu khai thác trên vùng biển trước đó, sẽ tổ chức đưa 100-150 tàu cá và 1.500 đến 2.000 ngư dân khai thác hải sản ở vùng biển do Ủy ban cá ngừ ở khu vực Ấn Độ Dương quản lý (IOTC) và các vùng biển quốc tế khác.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đề án ra đời nhằm giải quyết việc làm cho ngư dân, giảm áp lực khai thác ven bờ, đồng thời góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Số tàu vỏ sắt, vỏ vật liệu mới tiếp tục phát triển theo hướng hiện đại cả về số lượng, chất lượng (đến năm 2016 là 109.762 chiếc).
Ngoài ra, những năm gần đây, vì lợi ích kinh tế nên nhiều chủ tàu, ngư dân vi phạm vùng biển các nước để khai thác hải sản trái phép có xu hướng tăng.
“Tình trạng này làm ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao của Việt Nam cũng như tình hình xuất khẩu thủy sản có nguy cơ bị cảnh báo về vi phạm đánh bắt bất hợp pháp” - tờ trình của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nêu rõ.
Cũng theo Bộ này, khi xây dựng đội tàu khai thác viễn dương, ngành khai thác thủy sản của Việt Nam sẽ cơ hội để tổ chức hợp tác khai thác ở ngoài vùng biển nước ta và vùng biển quốc tế.
Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp, chủ tàu có nhu cầu đưa tàu và ngư dân đi khai thác hợp pháp ở ngoài vùng biển Việt Nam và vùng biển quốc tế nhưng chưa có cơ chế, chính sách. Bên cạnh đó còn vướng phải các quy định khác như: thỏa thuận, hiệp định hợp tác về khai thác hải sản với các nước có nguồn lợi thủy sản dồi dào như Brunei, Papua New Guinea… để làm căn cứ triển khai thực hiện.
Ngoài ra, Việt Nam có gần 1.000 nhà máy chế biến thủy sản, với gần 600 cơ sở chế biến xuất khẩu đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu sản phẩm vào thị trường 40 nước trên thế giới.
Do đó, cần phải tổ chức hợp tác khai thác hải sản ngoài vùng biển Việt Nam và vùng biển quốc tế để chủ động nguồn nguyên liệu cho các cơ sở chế biến xuất khẩu và phục vụ gần 3.900 cơ sở chế biến thủy sản tiêu thụ nội địa.
Mông lung, thiếu thực tế?
Về vấn đề này, ông Võ Thiên Lăng, Hội Nghề cá tỉnh Khánh Hòa đánh giá, mới nhìn qua đã thấy đây là một đề án khó khả thi bởi để xây dựng được một đội ngũ tàu khai thác viễn dương, những yêu cầu về khoa học công nghệ, nhân lực phải rất cao.
Khai thác viễn dương nghĩa là phải đi đánh bắt ở vùng biển nước ngoài, đi nhiều tháng vòng quanh thế giới, không chỉ đòi hỏi một con tàu lớn mà còn phải trang bị đầy đủ tiện nghi về công nghệ bảo quản, công nghệ dò tìm thông tin…
Cũng theo ông Lăng, những tiện nghi đó phải đảm bảo hiện đại, cao cấp mới có thể đáp ứng được việc đánh bắt ở các vùng biển trên thế giới. Đó còn chưa kể, trình độ nguồn nhân lực của chúng ta yếu, để có được một đội ngũ thủy thủ, thuyền trưởng “bôn ba” trên các vùng biển nước ngoài, không những đòi hỏi về trình độ ngoại ngữ tốt, giao tiếp giỏi mà còn đòi hỏi nhiều yếu tố về năng lực cao. Trong khi chúng ta không có cơ sở đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực này.
“Để đào tạo được một lớp thủy thủ phải mất 5 năm, từ thủy thủ thành thuyền trưởng phải mất 10 năm nữa. Vậy chúng ta định xây dựng một đội ngũ với trình độ như hiện nay để đi chinh chiến đại dương hay sao?
Với tất cả những yếu tố cơ bản nhất về nguồn nhân lực, về công nghệ, chúng ta quá thiếu và quá yếu, thì việc bỏ 26.000 tỷ đồng để xây dựng một đội tàu khai thác viễn dương là một điều không tưởng, khó khả thi” - ông Lăng đặt câu hỏi và nhấn mạnh.
Trao đổi với Đại Đoàn Kết, PGS. TS Đinh Trọng Thịnh, Trưởng Bộ môn Tài chính quốc tế (Học viện Tài chính) cũng cho rằng, đây là một đề án rất mông lung, thiếu thực tiễn.
Ông Thịnh đề cao việc Nhà nước đã và đang đưa ra nhiều chính sách cho kinh tế biển với mục tiêu vừa tạo công ăn việc làm cho ngư dân, vừa tạo đà cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cách làm lại chưa hợp lý.
“Không phải đây là dự án đầu tiên chúng ta đầu tư cho khai thác thủy hải sản, trước đó đã có nhiều chính sách được xây dựng, gần đây nhất là chính sách hỗ trợ ngư dân đóng tàu vỏ thép.
Chúng ta bỏ ra một lượng tiền không nhỏ, nhưng lại buông lỏng quản lý và thiếu sự hướng dẫn khiến cho những con tàu vừa được làm nên đã hoen gỉ, bong tróc, không hoạt động được” – ông Thịnh phân tích. Theo vị chuyên gia này, đối với dự án 26.000 tỷ này cũng vậy, chúng ta không thể có một đội tàu viễn dương mà vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu, đội ngũ thủy thủ với trình độ nhân lực như hiện nay.
Muốn có được một nguồn nhân lực hùng mạnh để có thể điều khiển những con tàu lớn đi chinh phục viễn dương, cần phải có sự đầu tư về thời gian rất dài. Chúng ta không thể đưa những con người hiện tại vào để điều khiển những con tàu lớn.
“Một đội tàu có khả năng khai thác viễn dương còn phải cần nhiều yếu tố về cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ, nhân lực… để có thể tiếp cận với thế giới. Chúng ta phải hội tụ được đầy đủ các yếu tố đó thì hãy nghĩ đến việc xây dựng đội tàu viễn dương, nếu không lại rơi vào tình trạng “ném tiền qua cửa sổ” như nhiều dự án “nghìn tỷ” khác”– PGS. TS Đinh Trọng Thịnh nêu quan điểm.