Dù sản lượng sữa tươi trong nước ngày càng tăng, nhưng ngành sữa Việt vẫn phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu. Sản xuất sữa nguyên liệu phải đối mặt với sự mất cân bằng cung và cầu khi sữa tươi nguyên liệu trong nước mới đáp ứng nhu cầu sản xuất khoảng 40%.
Theo thống kê, mức tiêu thụ sữa bình quân tại Việt Nam đạt khoảng 27 lít/người/năm và được dự báo tiếp tục tăng 7–8% mỗi năm. Doanh thu toàn ngành sữa tăng từ 4,4 tỷ USD năm 2017 lên hơn 5 tỷ USD năm 2023. Nhờ đẩy mạnh đầu tư chăn nuôi, tổng đàn bò sữa cả nước tăng trung bình 4,6%/năm, từ 228.000 con (2014) lên khoảng 335.000 con (2024).
Sản lượng sữa tươi nguyên liệu tăng gần 8,4%/năm, từ 550.000 tấn năm 2014 lên hơn 1,2 triệu tấn năm 2024, đáp ứng khoảng 40% nhu cầu sản xuất trong nước. Tuy nhiên, ngành sữa Việt vẫn phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu do mất cân đối cung - cầu.
Năm 2024, Việt Nam chi hơn 1 tỷ USD nhập khẩu sữa và các sản phẩm từ sữa, chủ yếu là sữa bột. Việc phụ thuộc nhập khẩu không chỉ gây nhập siêu, hao tổn ngoại tệ mà còn cản trở phát triển nông nghiệp trong nước, đặc biệt là chăn nuôi bò sữa. Ngoài ra, một số vụ sữa giả, kém chất lượng thời gian qua chủ yếu xuất phát từ phân khúc sữa bột công thức có nguồn gốc nhập khẩu.
Ông Nguyễn Xuân Dương - Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam phân tích, chúng ta đang có nghịch lý là quốc gia nông nghiệp nhưng lại phụ thuộc lớn vào nguyên liệu sữa từ nước ngoài. Muốn phát triển ngành sữa thực sự bền vững, điều kiện tiên quyết là phải làm chủ được nguồn nguyên liệu trong nước. Cần phát triển chăn nuôi bò sữa và liên kết chuỗi, đồng thời áp dụng công nghệ cao từ bước nhân giống đến chế biến bền vững.
TS Nguyễn Văn Hội - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, Chính sách Công Thương cho rằng, dù ngành sữa nội địa đã có nhiều bước tiến rõ rệt, nhưng để phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, vẫn còn không ít trở ngại cần được tháo gỡ. Một trong những thách thức nổi bật hiện nay là sự thiếu đồng bộ và lạc hậu trong hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật – đặc biệt đối với các sản phẩm sữa dạng lỏng.
Trong khi đó, tại các nước phát triển, sản phẩm sữa nước hầu hết đều chế biến từ sữa tươi nguyên liệu; ở nhiều quốc gia khác đã có bước đi quyết liệt nhằm chuẩn hóa định nghĩa và chất lượng sữa. Đơn cử, Trung Quốc đã chính thức cấm sử dụng sữa bột hoàn nguyên trong sản xuất sữa tiệt trùng (Phụ lục sửa đổi số 1 của tiêu chuẩn GB 25190 - 2010, có hiệu lực từ ngày 16/9/2025), nhằm thúc đẩy ngành sữa nội địa và bảo vệ người tiêu dùng.
TS Nguyễn Mạnh Đạt - Phó Viện trưởng Viện Công nghệ thực phẩm cho hay, qua quá trình rà soát, xây dựng lại quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các sản phẩm sữa còn nhiều bất cập. Quy định hiện nay chưa phân định rõ ràng giữa sữa được làm từ nguyên liệu tươi và sữa được pha từ sữa bột hoàn nguyên, dẫn đến tình trạng cùng một nhãn “sữa tiệt trùng” nhưng bản chất sản phẩm khác nhau hoàn toàn.
Nhiều vi chất dinh dưỡng trong sữa chưa có quy định cụ thể về hàm lượng tối thiểu. “Ở nhiều nước, các vi chất thiết yếu này được quy định cụ thể để đảm bảo dinh dưỡng, đặc biệt với trẻ nhỏ. Nhưng tại Việt Nam, chưa có quy định chi tiết tương đương” - ông Đạt nhận định.
Do đó, việc cập nhật, hoàn thiện quy chuẩn kỹ thuật về sữa là rất cấp thiết. “Không phải vì có sai sót mà là do thực tiễn đã thay đổi, đòi hỏi phải có điều chỉnh phù hợp để bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt là trẻ em và đảm bảo sự minh bạch trên thị trường sữa hiện nay” - ông Đạt cho hay.
Bên cạnh đó, việc xây dựng quy chuẩn cũng cần dựa trên tiêu chí khoa học, khách quan và trung thực. “Điều quan trọng là phải làm rõ về nhận thức xã hội thế nào là sữa hoàn nguyên? Và người tiêu dùng có quyền được biết rõ mình đang sử dụng loại sữa nào” – ông Đạt nhấn mạnh, đồng thời cho rằng, cần tập trung vào những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh, vừa đảm bảo chất lượng dinh dưỡng cho người tiêu dùng, vừa phát triển ngành sữa theo hướng bền vững.