Báo Đại Đoàn Kết Công nghệ

Khoa học, công nghệ và giáo dục phải trở thành trụ cột kiến tạo tương lai đất nước

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Khoa học, công nghệ và giáo dục phải trở thành trụ cột kiến tạo tương lai đất nước

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News

Góp ý vào Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng, GS.TS Lê Vân Trình, Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật An toàn và Vệ sinh lao động Việt Nam (Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) mong muốn Đảng và Nhà nước sớm thể chế hóa và triển khai mạnh mẽ các cơ chế, chính sách đặc thù cho khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo.

GS.TS Lê Vân Trình.
GS.TS Lê Vân Trình.

Phát triển khoa học và công nghệ, động lực then chốt cho tăng trưởng

GS.TS Lê Vân Trình nhận định, sau gần 40 năm đổi mới, khoa học, công nghệ (KHCN) đã trở thành một trong những trụ cột của tăng trưởng kinh tế, góp phần quan trọng vào năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, đóng góp của KHCN vào GDP mới đạt khoảng 30%, thấp hơn nhiều so với mức 60-70% ở các nước công nghiệp phát triển.

Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”, tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc hiện thực hóa định hướng này còn nhiều hạn chế. Kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và kinh tế số tuy đã được khởi động, nhưng thiếu sự đồng bộ về thể chế, nhân lực và đầu tư hạ tầng dữ liệu.

Do vậy, văn kiện Đại hội XIV cần làm rõ hơn mô hình phát triển kinh tế mới, trong đó nhấn mạnh, KHCN và đổi mới sáng tạo là động lực chủ yếu của tăng trưởng; Xây dựng chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp KHCN; Tăng đầu tư cho nghiên cứu và chuyển giao tri thức giữa viện - trường - doanh nghiệp.

Để KHCN thực sự trở thành động lực then chốt của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, GS.TS Lê Vân Trình cho rằng, phải tập trung vào hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý KHCN theo hướng mở, linh hoạt, hiệu quả. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo và định hướng chiến lược, tập trung đầu tư cho các lĩnh vực nền tảng và mũi nhọn; đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tự chủ sáng tạo, chủ động nghiên cứu và thương mại hóa kết quả. Cần mạnh dạn thực hiện cơ chế khoán theo sản phẩm, đặt hàng nhiệm vụ nghiên cứu gắn với nhu cầu thị trường và phát triển vùng, ngành.

Ông cũng đề xuất chú trọng phát triển nguồn nhân lực KHCN chất lượng cao, xây dựng chương trình quốc gia đào tạo chuyên gia đầu ngành; có chính sách tôn vinh, đãi ngộ xứng đáng và bảo vệ quyền lợi của nhà khoa học. Việt Nam có thể tận dụng lực lượng kỹ sư trẻ, năng động, đang làm việc trong các doanh nghiệp FDI lớn để hình thành các trung tâm công nghệ cao, khu công nghiệp bán dẫn, công viên phần mềm tầm quốc gia, hướng đến mục tiêu đến năm 2035, Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất và thiết kế chip ở khu vực Đông Nam Á.

“Cần mở rộng cơ chế đấu thầu, đặt hàng nhiệm vụ khoa học cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các viện và trung tâm nghiên cứu ngoài công lập, để phát huy tiềm năng của hơn 3 triệu trí thức trong hệ thống Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật thuộc MTTQ Việt Nam” - GS.TS Lê Vân Trình đề xuất.

Gắn giáo dục với nhu cầu thị trường lao động

Theo GS.TS Lê Vân Trình, giáo dục và đào tạo có vai trò then chốt trong việc hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần trực tiếp vào năng lực cạnh tranh của quốc gia. Dù đã đạt được nhiều tiến bộ về phổ cập giáo dục, mở rộng quy mô đào tạo và hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học, tuy nhiên, chất lượng giáo dục vẫn chưa đồng đều, năng lực tự chủ của các cơ sở giáo dục còn hạn chế. Việc đổi mới chương trình, phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá còn chậm so với yêu cầu chuyển đổi số và kinh tế tri thức.

Trong bối cảnh mới, Việt Nam cần thực hiện chuyển đổi từ mô hình truyền thụ kiến thức sang mô hình phát triển năng lực và sáng tạo, gắn kết chặt chẽ giữa giáo dục - khoa học - sản xuất. Có như vậy, giáo dục mới thực sự trở thành nền tảng phát triển con người Việt Nam toàn diện, gắn với khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Góp ý cụ thể xung quanh việc đổi mới thể chế và cơ chế quản lý giáo dục, GS. TS Lê Vân Trình cho rằng, cần thực hiện phân cấp, trao quyền tự chủ thực chất cho các cơ sở giáo dục, chuyển vai trò Nhà nước từ “quản lý” sang “kiến tạo và giám sát chất lượng”. Giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thị trường lao động. Phải đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện trong giáo dục, xây dựng kho học liệu số dùng chung, ứng dụng AI trong giảng dạy - kiểm tra - đánh giá; phát triển mô hình học tập mở, học tập suốt đời, bảo đảm cơ hội học tập bình đẳng cho mọi người.

Ông cũng nhấn mạnh việc phải có chính sách đãi ngộ và bảo đảm điều kiện làm việc xứng đáng để đội ngũ nhà giáo toàn tâm với nghề, khuyến khích sáng tạo trong dạy, học và nghiên cứu khoa học; đồng thời mở rộng mô hình “3 bên”: Nhà nước - Doanh nghiệp - Nhà trường và “Đại học ứng dụng” theo hướng đào tạo gắn thực tiễn, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế tri thức.

Phát huy và trọng dụng đội ngũ trí thức, nguồn lực nội sinh của dân tộc
Theo GS. TS Lê Vân Trình, đội ngũ trí thức Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong sáng tạo tri thức, chuyển giao công nghệ và định hướng phát triển xã hội. Trong giai đoạn mới, khi tri thức trở thành tài nguyên quý giá nhất, thì trí thức chính là vốn xã hội đặc biệt, là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất cho sự phát triển bền vững. Vì vậy cần coi trí thức là lực lượng nòng cốt của công cuộc chấn hưng đất nước. Trên cơ sở đó cần xây dựng Chiến lược quốc gia phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2045, gắn với chiến lược phát triển KHCN quốc gia. Đồng thời cần có cơ chế trọng dụng, đãi ngộ trí thức, không phân biệt đối xử để họ yên tâm cống hiến trong và ngoài khu vực công. Đặc biệt phải phát huy vai trò của các hội xã hội nghề nghiệp, nơi tập hợp các trí thức thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong phản biện, tư vấn và giám định xã hội đối với chính sách khoa học, công nghệ và giáo dục.

Anh Vũ