GS.TS.BS Mai Trọng Khoa, hiện là Phó Giám đốc BV Bạch Mai, Giám đốc Trung tâm hạt nhân và ung bướu BV Bạch Mai không chỉ là một trong những giáo sư đầu ngành y tế về chữa trị ung thư mà còn là người có duyên với Giải thưởng Hồ Chí Minh.
GS.TS Mai Trọng Khoa bên cụm công trình được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Có lần ông được mời đọc tham luận tại một cuộc hội thảo có nội dung: “Ứng dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình ở Việt Nam” do Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức. Tham luận của ông có nội dung về kết quả ứng dụng một cách hiệu quả năng lượng chất phóng xạ trong y tế, kinh tế và an toàn được tất cả các đại biểu tham gia hội thảo hoan nghênh nhiệt liệt.
Và tham luận của ông đã “lọt mắt xanh” của những người đứng đầu Bộ Khoa học và Công nghệ. Một lời đề nghị sáng giá từ đây, để rồi sau đó vài tháng, ông đã đầu tư công sức miệt mài tập hợp các kết quả nghiên cứu ứng dụng hạt nhân trong chẩn đoán, điều trị ung thư trong nhiều năm qua để tham gia và đoạt Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học - công nghệ lần thứ 5, năm 2015. Giải thưởng gồm 5 nhóm công trình, có tên “Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật hiện đại về bức xạ ion hóa trong chẩn đoán, điều trị ung thư và một số bệnh lý khác”.
Nói đến đây, ông bảo: Có lẽ để tôi giới thiệu các anh nên gặp người thực, việc thực, có khi viết hay hơn. Người mà GS.TS Mai Trọng Khoa giới thiệu cũng là một bác sĩ - PGS.TS Đỗ Quốc Hùng, nguyên Trưởng phòng C7, Viện Tim mạch, Bệnh viện Bạch Mai.
Đầu năm 2012, do bị ho kéo dài, uống thuốc cũng không khỏi, BS Hùng tự đi kiểm tra sức khỏe. Qua nhiều chẩn đoán kỹ thuật của đồng nghiệp, BS Hùng biết mình đã bị ung thư phổi giai đoạn cuối (giai đoạn 4B), di căn khắp cơ thể: Hạch, cột sống, xương sườn... Thoáng chút băn khoăn, do dự giữa định hướng ra nước ngoài điều trị hay ở lại cậy nhờ nền y tế trong nước, cuối cùng, BS Hùng quyết định đến gặp GS.TS Mai Trọng Khoa.
Sau khi được chỉ định chụp CT ngực, sinh thiết khối u ở phổi, làm các xét nghiệm đột biến gen... bệnh nhân, đặc biệt là chụp PET/CT toàn thân để “truy lùng” khối u tại phổi và các nơi khác trong cơ thể, bệnh nhân được GS Khoa cho truyền hóa chất với phác đồ được tính toán kỹ, rồi được sử dụng thuốc điều trị đích. Sau hơn 7 tháng điều trị, kết quả cho thấy các khối u trên cơ thể BS Hùng gần như đã biến mất.
Thế nhưng, hơn 2 năm sau, khối u lại di căn xuống xương chậu, cột sống khiến bác sĩ Hùng đau đớn, phải ngồi xe lăn. Lần này, ông được chỉ định điều trị bằng phương pháp dùng hóa chất kết hợp xạ trị có sử dụng hình ảnh PET/CT để mô phỏng lập kế hoạch xạ trị và thuốc điều trị đích, thuốc chống hủy xương... Sau điều trị, các khối u một lần nữa lại biến mất.
Vậy nhưng, đến năm 2015, khối u lại di căn vào não. Mắt trái của ông cứ mờ dần mà không có biểu hiện đau đớn nào. Đi khám, ông được phát hiện bị bong võng mạc do một khối u trên não đè ép nhãn cầu gây ra. Một lần nữa, GS.TS Mai Trọng Khoa lại chỉ định cho chụp PET/CT và chụp cộng hưởng từ sọ thì phát hiện quả thực là ông đã có khối u lớn trong não.
Trong lần tái phát thứ 3 này, bệnh nhân Hùng được chỉ định điều trị theo phương pháp xạ phẫu bằng dao gama quay (hội tụ các chùm tia bức xạ rất mảnh một cách chính xác vào khối u não) để tiêu diệt khối u, đồng thời kết hợp truyền hóa chất và thuốc điều trị đích.
Trong những trường hợp như thế này, bệnh nhân chỉ có thể được điều trị triệu chứng, chăm sóc giảm nhẹ vì đã là giai đoạn muộn. Nhưng với nghị lực vững vàng, tuân thủ điều trị tuyệt đối cộng với một chiến lược điều trị hợp lý, khoa học và được áp dụng những kỹ thuật chẩn đoán, điều trị tiên tiến, bệnh nhân đã chiến thắng được căn bệnh, toàn bộ khối u đã không còn. Hiện PGS.TS Đỗ Quốc Hùng vẫn khỏe và đang làm việc tại BV Bạch Mai.
Bác sĩ Hùng chỉ là một trong rất nhiều bệnh nhân mắc ung thư được chữa khỏi (sống sót sau 5 năm phát hiện) nhờ thụ hưởng từ kết quả nghiên cứu cụm 5 công trình khoa học nói trên do GS.TS Mai Trọng Khoa và các cộng sự thực hiện. Giải thưởng Hồ Chí Minh được trao cho cụm công trình này vì các phương pháp điều trị chẩn đoán sớm, chính xác giai đoạn bệnh, đưa ra được các phương pháp điều trị chính xác và an toàn cho bệnh nhân. Đặc biệt, công trình đã góp phần giải quyết các khó khăn trong chẩn đoán và điều trị các bệnh nhân ung thư tái phát, di căn, mà các phương pháp điều trị trước đó không đáp ứng được.
“Tới đây, kết quả nghiên cứu sẽ được phổ biến, đào tạo, chuyển giao cho nhiều cơ sở y tế trong cả nước, góp phần đáng kể vào việc chẩn đoán và điều trị hiệu quả cho bệnh nhân ung thư, giảm đáng kể chi phí điều trị và chi phí xã hội cho việc chẩn đoán và điều trị căn bệnh này”- GS.TS. Mai Trọng Khoa chia sẻ.