Nhà văn Nguyễn Văn Thọ: Tôi học thêm… lặng im
Tôi vừa đọc bài thơ “Ghi chép lúc nửa đêm” của nhà văn Nguyễn Văn Thọ (Thọ Muối) trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số gần đây. Nhớ khổ cuối: “Ngồi bên bạn vài giờ / tôi học thêm… lặng im / trước những nỗi niềm không thước nào đo đếm được / con người!”. Muốn chạy đến bên ông để được cùng ông học “lặng im”, bởi đó cũng là sự ngộ giác ở cõi người.

Nói đến Nguyễn Văn Thọ là người đọc nhớ ngay đến nhà văn, tác giả của rất nhiều tập truyện ngắn như Vườn Maria (giải Khuyến khích cuộc thi truyện ngắn, báo Văn Nghệ 2000 - 2001), Cõi ảo (giải Nhì cuộc thi truyện ngắn, Tạp chí Văn nghệ Quân đội 2001 - 2002), Phố cũ (giải Tư cuộc thi truyện ngắn, báo Văn Nghệ 2003 - 2004), Vàng xưa (Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2003). Đặc biệt, tiểu thuyết Quyên đã đưa ông đến vinh quang – Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, năm 2023.
Trước đó, Quyên được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải Nhì cuộc thi tiểu thuyết, từng tái bản 6 lần, với hơn 10 vạn cuốn sách đã được xuất bản. Nhà văn Nguyễn Văn Thọ kể rằng, bản thân ông “cõng” khoảng 4.000 cuốn ra nước ngoài. Quyên hiện có mặt tại các nước như Mỹ, Canada, Nga, Đức, Ba Lan...
Năm 2015, Quyên được chuyển thể và Hãng phim BHD dựng thành phim nhựa, công chiếu ở nhiều quốc gia Đông Âu (cũ), kể cả ở một số quốc gia EU nhưng Anh, Pháp. Tôi từng nghe doanh nhân Phạm Văn Khoa, vốn là quản lý lao động ở Tiệp Khắc (cũ): “Em chưa đọc thiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Văn Thọ nhưng đã từng xem phim này ở Pháp”.
Nguyễn Văn Thọ là một nhà văn “lừng lững” trong “ngôi đền văn chương”, nhưng điều tôi bất ngờ là ông làm thơ trước khi viết văn. Tập thơ đầu tay của Nguyễn Văn Thọ mang tên Mảnh vỡ, NXB Hội Nhà văn năm 1998. Gần đây, nhà văn Nguyễn Văn Thọ có chuyển cho tôi bản thảo tập thơ Mối tình, gồm 140 bài thơ. In ra sẽ là một tập thơ dày dặn.

Hiểu được con người đã khó, hiểu thơ càng khó. Trong bài thơ "Trong tôi có một ngôi đền", ông viết: "Trong tôi có một ngôi đền/ tôi đi suốt cuộc đời, chưa bao giờ hết.../ xin đừng chạm vào đây bởi nơi tự thờ tộc Việt/ nơi đây này, đâu phải của riêng tôi!". “Ngôi đền” trong trái tim nhà thơ – nơi cung cấp hồng cầu nuôi từng khắc sống, nhưng không còn của riêng ông.
*
**
Nguyễn Văn Thọ sinh năm 1948, quê Thái Bình, nhưng được bố mang lên Hà Nội từ bé. Gia đình ông vừa có truyền thống cách mạng, vừa “đáng nể” về nghệ thuật hàn lâm. Ông nội Nguyễn Văn Thọ tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa 1932 - 1933, cùng thế hệ họa sĩ Hoàng Lập Ngôn, Lê Hữu Ngọc…
Ngay từ nhỏ Nguyễn Văn Thọ được ông nội, cha mình dạy học vẽ, “song không muốn theo đuổi vì chứng kiến cuộc sống khó khăn của các cụ”, như lời ông kể. Năm 1965, sau khi tốt nghiệp trường cấp III Trưng Vương (Hà Nội) cũng là lúc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất xảy ra và ngày càng lan rộng, Nguyễn Văn Thọ phải tạm dừng ước mơ, lên đường nhập ngũ, Năm 1968, ông đi B (miền Nam), tham gia chiến đấu tại nhiều mặt trận ác liệt. Năm 1976, ông giải ngũ bắt đầu một hành trình.
Năm 1981, sau khi tốt nghiệp Đại học Thương nghiệp, ông trở thành nhân viên của Tổng công ty Muối Việt Nam. Chức vụ “khá oách” của ông trước khi rời doanh nghiệp là Phó Văn phòng Tổng công ty. Biệt danh “Thọ Muối” trở thành tên gọi, do ông gắn bó với diêm dân, nghề muối.
Năm 1988, Nguyễn Văn Thọ sang Cộng hòa Dân chủ Đức (cũ) làm Đội trưởng lao động và ở lại Đức sau khi nước Đức thống nhất. Năm 2014, ông về định cư hẳn tại Hà Nội. Một lần trò chuyện, tôi hỏi: “Sao anh không ở lại như bao người, nếu ở bây giờ đã trở thành công dân EU?”. Không chút suy nghĩ, ông trả lời: “Tao phải về mày à, tao là một Đảng viên, Tổ quốc tao là Việt Nam”.

Nói về “duyên thơ”, nhà văn Nguyễn Văn Thọ kể rằng: “Trong số bè bạn tôi, nhiều người kiên trì đường thơ từ trẻ, họ sinh ra để làm thi sĩ. Còn tôi, không vậy, tôi coi thơ chỉ là phương tiện”. Ông cho biết, trong đời họat động văn học của mình, có ba người gần gũi, chú ý khai thác mạch thơ tôi, đó là cố thi sĩ Bế Kiến Quốc và vợ ông nhà thơ Đỗ Bạch Mai, và một người là bạn xưa hiểu nỗi lòng mà động viên viết.
Nguyễn Văn Thọ kể, khi sang Đức bố ông có dặn, đừng thức mà không làm gì, thức trắng đêm, không làm gì tức là không thức. Đó là thời gian như ông tự bạch “trong tâm hồn tràn ngập đau khổ, đau đớn trong giữa trái tim, đành dùng thơ nói ra điều mà ngày ngày không thể dễ nói bằng lời thường”. Thơ cứ đến với ông.
“Tôi viết như thác đổ cả khi mơ. Tôi bật dậy giữa đêm, ghi lại những gì tự đáy lòng mình thầm thì, mà sự viết ghi lại như vậy đã mặc sức cho ngôn từ “tự do lổn nhổn“, rồi sau đó gọt rũa, tẩy xóa cho chỉnh tề. Khi con tim thường thường yêu, trái tim nào chẳng cất lời mộc mạc và thơ ngây”- ông nhớ lại.
“Tôi về mộng mị chiêm bao / dấu chân dầm tuyết năm nào còn mưa/ trở về nỗi buồn ban trưa / đắng cay ai nuốt, ngọt xưa ai cầm / trở về chiều tối âm thầm / chữ tôi đắng nặng bao mầm ưu tư” (Hôm nay tôi đi tìm con). Đọc khổ thơ này, hiển thị tâm hồn giằng xé.
Thơ là người, thơ có sức mạnh "tố cáo" tác giả, bởi thơ không lừa dối được nội tâm, cảm xúc. Không ai có thể vay mượn cảm xúc để làm thơ. Với nhà văn Nguyễn Văn Thọ, văn học không chỉ là nơi giãi bày tâm sự, xác tín “tuyên ngôn” tâm hồn tác giả, mà còn để cứu rỗi. Theo nhà văn, muốn viết những điều tử tế, trước hết phải sống, rèn luyện trở thành người tử tế.
“Không tự biết / mình là những hạt cát / từ hư vô / đến hư vô / cát bụi bay trên nóc giữa những cổng thành / cung điện, đền đài.../ nhìn cho kĩ ngắm rêu phong / nhắc về những màu tím, xanh bất tử / Vợi một nỗi xa” (Nhiều khi). Thơ Nguyễn Văn Thọ như con người ông, ở ngưỡng ngoài thất thập là sự đốn ngộ.
*
**
Đầu năm 2025, tại “Hội thảo Văn học nghệ thuật với đề tài lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam – 8 năm đồng hành sáng tạo” do Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam và Hội đồng Lý luận VHNT Việt Nam đồng tổ chức; tôi được chứng kiến nhiều lần Nguyễn Văn Thọ phải dừng lại, ông xúc động bởi ký ức.
Có đi qua cuộc chiến khốc liệt mới hiểu những người lính không muốn chiến tranh. Hơn ai hết, họ mong muốn hòa bình. Với Nguyễn Văn Thọ, 8 năm trong quân ngũ của ông, trong đó 7 năm (1968 – 1975) là giai đoạn ác liệt nhất. Ông từng phải cõng thương binh, vuốt mắt cho bao đồng đội hy sinh trên chiến trường.
Vì thế, khi cầm bút, Nguyễn Văn Thọ viết một cách chân thật nhất, những câu chuyện ông từng chứng kiến hiện lên với tất cả trăn trở, xa xót. Người lính trong nhiều truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Thọ ngời sáng tình yêu đối với đất nước- đó là mục tiêu chiến đấu của họ. Tập truyện ngắn Vàng xưa (đã tái bản 3 lần) về người lính và chiến tranh cách mạng của Nguyễn Văn Thọ, ăm ắp chủ nghĩa nhân văn, thấm đẫm tình cảm sống chết của đồng chí, đồng đội.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa từng nói: “Nguyễn Văn Thọ là cây bút vạm vỡ tài hoa. Nhưng cứ như mắt tôi đọc thì truyện ngắn mới là phần tinh túy nhất của anh. Ở đó, anh mới bộc lộ được hết ma lực của mình”. Nguyễn Văn Thọ luôn đứng về phía “phe nước mắt”, văn chương của ông là nơi trú ngụ của những kẻ bần hàn, yếu thế trong xã hội.
Trước khi gặp Nguyễn Văn Thọ, tôi nghe “đồn thổi” đó là một người nóng tính, cuộc đời từng lăn góc nên thừa gai góc. Thế nhưng gần ông, tôi nhận ra đó là con người thủy chung với lý tưởng của mình, với ngòi bút và trong quan hệ bạn bè. Ông có trái tim mềm yếu, dễ xúc động.
“Hãy dũng cảm chân thành đóng góp những điều tử tế. Nếu ngoảnh mặt, chúng ta sẽ có lỗi với tiền nhân, có lỗi với máu các tráng đinh, dũng sĩ đã chết cho tổ quốc, quê hương, xứ sở”- ông bày tỏ. Cuộc sống và tác phẩm xác tín.
Những năm gần đây sức khỏe nhà văn Nguyễn Văn Thọ không tốt, nhất là năm 2025, ông phải điều trị trong viện dài ngày. Gần đây, gặp nhau ông bảo: “Tao đã gác bút viết văn. Đã vắt kiệt mình cho nhân vật, giờ đời còn một mẩu nữa nên phải sống cho tao”.
Sinh thời nhạc sỹ Văn Cao - tác giả của Quốc ca Việt Nam viết: "Giữa sự sống và sự chết / Tôi chọn sự sống / Và để bảo vệ sự sống / Tôi chọn sự chết" (Chọn). Với Nguyễn Văn Thọ, an nhiên, buông bỏ, nhưng luôn nhắc mình: “Tràn ngập trong lòng ta mãi một hương thơm / như các loài cây vườn ta không biết nói / vẫn ngày đêm trò chuyện lặng thầm...” (An và tịnh).