Nhập khẩu thức ăn chăn nuôi: “Bài toán” bí lời giải
Là một nước có thế mạnh về nông nghiệp và chăn nuôi, tuy nhiên hiện nay nhập khẩu thức ăn dùng cho chăn nuôi (TĂCN) của Việt Nam đang trở thành nghịch lý. Nhập khẩu ngày càng tăng, giá nhập khẩu TĂCN cao đang là một thách thức với người dân cũng như Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 do Bộ NN&PTNT đã đề ra.

Nếu không chủ động được TĂCN thì tỷ trọng chăn nuôi sẽ khó đạt mục tiêu đề ra.
Những con số cảnh báo
Trong Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 của Bộ NN&PTNT đề ra, mục tiêu đưa chăn nuôi thành ngành sản xuất chính, chiếm tỷ trọng 42% trong cơ cấu giá trị ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia, mục tiêu đó khó có thể đạt được nếu ngay từ bây giờ không kịp thời xây dựng nguồn cung cấp nguyên liệu TĂCN một cách ổn định. Ðiều đó có nghĩa, chúng ta phải tối ưu hóa được nguồn nguyên liệu trong nước bằng nhiều biện pháp linh hoạt.
Theo Tổng cục Hải quan, riêng năm 2014, Việt Nam đã chi trên 3 tỷ USD nhập khẩu thức ăn và nguyên liệu sản xuất TĂCN. Hiện nay, theo tính toán của Bộ Công Thương, giá sản phẩm thức ăn và nguyên liệu TĂCN khi đến tay người chăn nuôi đã “đội” lên cao rất nhiều do nguyên liệu của ngành TĂCN chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài. So với các nước trong khu vực, giá thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam luôn cao hơn khoảng 15 đến 20%, dẫn đến các sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam khó cạnh tranh.
Trong sản xuất TĂCN, ngoài các nguyên liệu khác thì ngô và đậu tương luôn chiếm vai trò quan trọng. Tuy nhiên hiện nay, hai thứ nguồn nguyên liệu này của Việt Nam đang được coi là đang khan hiếm và chưa chủ động được. Cũng theo thống kê, trong 6 tháng đầu năm nay, việc nhập khẩu ngô của chúng ta đã tăng kỷ lục, đạt 3,27 triệu tấn với kim ngạch nhập khẩu 744 triệu USD.
Theo dự báo của Tập đoàn Bunge (Mỹ)- doanh nghiệp chuyên cung cấp thức ăn chăn nuôi- thì hàng năm nhu cầu nhập khẩu ngô của Việt Nam đã tăng lên khoảng 3,5 – 4 triệu tấn. Với diễn biến thời tiết và tình hình canh tác như hiện nay, dự kiến con số này sẽ còn tăng thêm nếu tính trong cả năm. Tương tự như ngô, trong 6 tháng đầu năm, Việt Nam đã phải nhập khẩu gần 950.000 tấn đậu tương với giá trị 438 triệu USD.
Thiếu trầm trọng về ngô, đậu tương để làm nguyên liệu chế biến TĂCN nhưng có một nghịch lý là hiện nay diện tích gieo trồng hai thứ cây này lại trong những năm gần đây đang giảm mạnh. Theo thống kê, ngay như vụ đông xuân năm nay ngô đã giảm tới 29.600ha, chỉ còn 580.000ha với sản lượng chỉ đạt 2,5 triệu tấn. Đậu tương giảm chỉ còn 69.000ha với sản lượng vỏn vẹn trên 77.000 tấn.
Cứu nguy bằng công nghệ
Để khắc phục việc suy giảm diện tích, Bộ NN&PTNT đã có nhiều chủ trương, trong đó đáng chú ý nhất là việc chuyển đổi 200 nghìn ha trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ngô, đậu tương… Tuy nhiên, trong việc chuyển đổi này, một trong những nguyên nhân khiến bà con nông dân chưa mặn mà vì năng suất các giống ngô trong nước còn thấp. Hiện nay, trung bình năng suất ngô chỉ đạt 4,4 – 4,6 tấn/ha, thấp hơn cả lúa. Trong khi đó, theo tính toán năng suất ngô tối thiểu phải đạt 6 tấn/ha trở lên với giá bán 5.000 đồng/kg người dân mới có lãi.
Song song với đó, Bộ NN&PTNT đã đưa một số giống ngô biến đổi gen được công nhận vào một số địa phương để canh tác, với mục đích tạo năng suất, thu nhập cho bà con nông dân và điều quan trọng là bù đắp nhanh nguồn nguyên liệu đang thiếu hụt. Theo đánh giá, đây là những giống ngô có tiềm năng năng suất cao, có thể đạt từ 8 – 12 tấn/ha.
Theo ông Đỗ Văn Vẻ (Đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Bình), trên thế giới đã ứng dụng công nghệ sinh học, nhất là cây trồng biến đổi gen rất nhiều và thực tế hàng năm chúng ta phải nhập khẩu rất nhiều ngô, đậu. Vậy thì tại sao chúng ta lại không cho trồng đại trà cây trồng này để vừa giảm chi phí nhập khẩu, vừa chủ động được nguồn nguyên liệu cho ngành chăn nuôi trong nước?
Quan điểm này cũng phù hợp với ông Cao Đức Phát, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT khi ông cho rằng, chúng ta đã khảo nghiệm theo những chuẩn mực quốc tế rất nhiều năm. Đã tổ chức những thí nghiệm để cuối cùng đi đến kết luận, những cây trồng này an toàn về mặt sinh học, sinh thái, an toàn đối với gia súc và an toàn đối với con người khi mà áp dụng toàn bộ quy trình sản xuất bao gồm giống, phân bón, thuốc trừ cỏ.
Được biết, hiện nay trên thế giới đã có hơn 25 nước trồng cây trồng biến đổi gen. Họ đã làm ra khoảng 80% bông, 50% đỗ tương và trên 30% sản lượng ngô của toàn thế giới trồng bằng cây trồng biến đổi gen. Những khảo nghiệp ở ngoài nước và trong nước cho thấy rằng, trồng cây trồng biến đổi gen sẽ đem lại cho người trồng trọt thu nhập cao hơn.
Để giải “bài toán” về thiếu hụt TĂCN, nhiều giống cây trồng biến đổi gen trong đó có ngô được đưa vào một số vùng miền đã phát huy hiệu quả như khu vực xã Sơn Hùng, huyện Thanh Sơn (Phú Thọ). Theo ông Lê Thanh Hải- cán bộ khuyến nông xã thì: So với giống truyền thống, ngô chuyển gen sau khi thu hoạch có thể đạt từ 6 đến 8 tấn/ha, cao hơn so với ngô truyền thống từ 1 đến hơn 2 tấn/ha. Sau thời gian tham gia khảo nghiệm mô hình giống ngô chuyển gen đã giúp nông dân vừa tiết kiệm được công lao động, chi phí mua thuốc trừ sâu, ruộng đồng vừa được bảo vệ khỏi các ảnh hưởng do sâu hại cắn phá và cạnh tranh dinh dưỡng của cỏ dại.