Gia tài của ông đồ thật khiêm nhường. Vài chiếc bút lông to nhỏ khác nhau, xếp gọn gàng bên tập giấy đỏ và nghiên mực đen sóng sánh. Bên trong cái dáng gầy gò, tấm lưng còng, là cái bồ chữ người ta có thể xin mang về trang hoàng trong nhà, để có thêm nguồn sinh lực khi mùa xuân đang đến gần. Cũng chẳng rõ từ đâu ông có sức hút kỳ lạ với người dân quê, đặc biệt vào phiên chợ tết.
Tránh xa những âm thanh hỗn độn của hàng gà vịt, ngan ngỗng và hàng quán ồn ã của phiên chợ tháng Chạp, ông lặng lẽ chọn một khoảng trống ở ngay cổng chợ quê.
Không ai biết ông từ đâu đến, chỉ thấy vài phiên chợ nay, mới sáng tinh sương đã thấy ông ngồi đây, không sai lệch một tấc.
Người Việt Nam có thói quen treo chữ trong nhà để lấy may, lấy khước. Nhà giàu thì mong được sang dùng chữ “Quý”; người đã sang lại mong được khỏe mạnh bình yên, thầy cho hai chữ “Khang Ninh”. Cũng có người xin ông chữ “Nhẫn”…
Tấm chiếu trải ra, tấm lưng còng đổ xuống trước những xếp giấy hồng điều và nghiên bút mực Tàu đen ánh. Mặt trời lên cao, gió nồm thổi lên làm tà áo the của ông lật ngược cùng chòm râu phất phơ bay, và ánh sáng chiếu vào đôi mắt thẳm sâu của một con người từng lăn trải trong thế cuộc. Không ai biết ông từ đâu đến, chỉ thấy vài phiên chợ nay, mới sáng tinh sương đã thấy ông ngồi đây, không sai lệch một tấc.
Người chợ quê nhận ra ông. Có người bảo ông quê Kinh Bắc, từng lều chõng vào đến tam trường rồi dừng lại. Cái chân tú tài trong kỳ thi hương, không có duyên với ông. Đã hai ba lần thi thố, nhưng cứ đến tam trường là sững lại. Ông đành "gõ đầu trẻ" ở Thuận Thành mưu sinh. Nhưng đầu tháng Chạp đã xin gia chủ cho về quê sớm, đi bán chữ kiếm thêm đồng tiền, đỡ cho người vợ đang ngược xuôi, tảo tần xoay xoả nuôi đàn con nhỏ ở quê nhà.
Ông vẫn đang soạn đồ nghề để cho một ngày mưu sinh. Gia tài ông thật khiêm nhường, chỉ có vài chiếc bút lông to nhỏ khác nhau, tập giấy đỏ và nghiên mực. Thế nhưng ông có sức hút kỳ lạ với người dân quê, đặc biệt vào dịp chợ tết. Bên trong cái dáng gầy gò, tấm lưng còng, là cái bồ chữ người ta có thể xin mang về trang hoàng trong nhà, để có thêm nguồn sinh lực khi mùa xuân đang đến.
Một người đàn bà trạc ngoài ba mươi tuổi, ăn vận gọn ghẽ có dáng con nhà gia giáo, dắt cậu con trai khuôn mặt bầu bĩnh đến trước chiếu ông đồ.
- Dạ thưa thầy, bố cháu mất sớm, chúng tôi phận mẹ góa con côi, sống giữa đường đời thật gian hiểm. Xin thầy mấy chữ thánh hiền, làm nơi nương tựa tinh thần, để mai sau lớn khôn cháu thành người có ích, tránh được con đường sa đọa.
Ông đồ nhìn người quả phụ còn trẻ có dáng phong lưu, trong lòng đầy nể phục. Ông nhìn đứa con thơ mà bảo rằng: - Bác có thể cho con hòm vàng, nhưng tọa thực sơn băng, miệng ăn núi lở. Làm sao bằng dạy con một bộ sách, rồi ra thi thố với đời, khiến cho con có thể làm quan, áo gấm mũ thêu, phò tá triều đình, vinh hiển một đời.
Vừa nói, ông đồ vừa lấy ra tờ giấy cắt sẵn, ngẫm nghĩ một lát rồi hạ bút. Trên nền giấy đỏ, những dòng chữ nét mực đen ánh hiện lên dưới ngọn bút lông mềm như nước mà sắc tựa dao:
“Di tử mãn doanh kim
Hà như giáo nhất kinh,
Tính danh thư cẩm trục,
Chu tử tá triều đình”.
Ông đồ đọc to một cách say sưa, người mẹ trẻ mắt mở to rạng rỡ. Tuy học hành sơ sài nhưng cô cũng hiểu được đây là “Thần đồng thi” có ý thức giáo huấn con người. Đợi mực khô, người mẹ cuộn lại cẩn thận rồi trả tiền thầy đồ. Thằng bé khoanh tay chào ông, rồi tung tăng chạy theo mẹ ra về. Ông đồ nhìn theo bóng họ nhòa dần trong đám đông về chợ, ông không để ý bấy giờ có một người đàn ông chăm chú theo dõi.
- Dạ, chẳng giấu gì thầy, tôi đi làm ăn lâu ngày trên mạn ngược, cũng vì hoàn cảnh thành ra một chốn đôi nơi…
Ông đồ chưa hiểu rõ, hỏi lại dè dặt:
- Ý ông là…
- Dạ thầy thông cảm tôi mới nói. Cũng vì hoàn cảnh nên mới xảy ra một thân cây mà có hai nhành... Đến nay có ít vốn mới dám đưa mẹ con cháu về tập trung lại một nơi. Thầy xem cho vài chữ treo trong ngôi nhà mới dựng, để kỷ niệm ngày sum họp.
Ông tủm tỉm hỏi:
- Vậy về đường tử tức ở hai nhành ra sao?
- Thưa thầy, đẹp đẽ cả! Nhành trước ba trai hai gái, nhành sau một trai một gái, cộng là bảy. Được cái trên dưới hòa thuận.
Ông đồ độ lượng cười to: Vậy là ông tốt phúc, lan quế sum vầy.
Rồi ông vung ngọn bút lông viết bốn chữ lớn: “Lan Quế Đằng Phương”.
Ngoài những câu đối đại tự, hoành phi có tính phổ cập chung cho mọi nhà, ông còn đáp ứng nhu cầu của từng vị khách có hoàn cảnh riêng. Khi thì một tấm hoành phi ghi công lao của tiền nhân treo nhà thờ tổ: “Quang tiền dụ hậu”- làm rạng rỡ đời trước, soi gương sáng đời sau; khi thì một câu đối có tính gia huấn răn khuyên các thành viên gia đình ăn ở phải đạo, lấy trung hiếu giữ nếp nhà bền vững, dùng nhân đức xử thế lâu dài:
“Trung hiếu trì gia viễn
Đức nhân xử thế trường.”
Người Việt Nam có thói quen treo chữ trong nhà để lấy may, lấy khước. Nhà giàu thì mong được sang dùng chữ “Quý”; người đã sang lại mong được khỏe mạnh bình yên, thầy cho hai chữ “Khang Ninh”. Cũng có người xin ông chữ “Nhẫn”. Ông quá quen với đủ các hạng khách, và chưa bao giờ làm họ mếch lòng. Ông nhớ một lần có vị khách trình bày: Mấy năm nay đi buôn bè thua lỗ, nay muốn giải xui, đến xin ông chữ dán trên hoành phi. Ông đồ xòe bàn tay ướm trên mặt giấy như đánh dấu làm bốn phần bằng nhau, rồi viết nhanh và dứt khoát bốn chữ “Nhi”. Khách nhìn 4 chữ “Nhi” hình giống như 4 chiếc bừa trên trang giấy rộng nên tỏ vẻ không hài lòng. E dè giây lát, ông ta nói:
- Đây là chữ “Nhi, Nhi, Nhi, Nhi” phải không? Đi buôn mà treo toàn “Nhi” có hợp chăng thưa thầy?
Ông đồ cười vẻ cảm thông và ôn tồn giảng giải:
- Tôi biết ngay là khi đọc bác không bằng lòng. Nhưng thử hỏi, nhà buôn ai chẳng mong lãi nhiều, một thành mười, mười thành trăm, trăm thành nghìn, nghìn thành vạn. Đây không phải chữ của tôi đâu, chữ thánh hiền đấy. Trong “Tam tự kinh” chẳng nói ư: “Nhất nhi thập, thập nhi bách, bách nhi thiên, thiên nhi vạn”. Bốn chữ ấy bác không thích thì còn chữ nào hơn đây?
Người lái buôn nở nang khuôn mặt vô cùng mãn nguyện. Hóa ra chữ thánh hiền thâm hậu là vậy. Chữ ở ngoài mà nghĩa lặn bên trong. Ông ta trả tiền còn biếu thêm gói chè mạn ngược.
Chợ đã dần vắng khách, ông đồ sực thấy kiến bò bụng. Ông vội vã xếp dọn đồ nghề thì có hai cậu con trai rõ vẻ là tuấn tú bước đến trước mặt thi lễ:
- Xin thầy giúp con một việc.
- Sao, các anh có việc gì?
Hai cậu kể rằng có một người bạn làm nghề điêu khắc mời họ đến dự tiệc tân gia, mà chưa biết cách đối xử. Ông hỏi nghệ nhân điêu khắc làm nhà ở đâu, một cậu thưa:
- Dạ, nhà cách chân núi chừng trăm mét, xung quanh bọc suối, bốn mùa thơm mát hoa rừng. Các bạn bè văn chương, thơ họa thường đến chơi đàm đạo.
Nghe khách kể, ông đồ trầm ngâm. Ông nói như với mình mà cũng như giãi bày với khách:
- Thế là bầu bạn tri âm?
Ông đồ lấy những đồng trinh kẽm trong hộp, bày 7 đồng lên tấm giấy như thể đánh dấu. Ông hình dung ngôi nhà miền sơn cước lồng lộng gió trời, bốn bề là trăng mây, hương thơm cỏ lạ. Nơi ấy có những bạn bè trao gửi niềm tâm sự để tạo nên tác phẩm để đời. Những con chữ chợt xuất thần đậu trên trang giấy:
“Sơn không thù tạc sinh giai phẩm
Trạch lãnh tri âm khởi tuyệt thi”
(Nhà vắng, có tri âm nảy vần thơ tuyệt bút
Núi lạnh, trong thù tạc sinh tác phẩm mê hồn)
Một tiếng xuýt xoa: Hay lắm. Xin thầy cho chúng con đôi nữa.
Ông đồ gác bút ngồi thở. Hai chàng trai nhìn nhau không nói. Họ biết cái giây khắc yên tĩnh kia sẽ mang đến điều kì diệu. Và 9 đồng trinh kẽm lại được bày lên mặt giấy để phân chia, rồi lần lượt 18 chữ thần tình được hiện lên hai vế câu đối:
“Hiên thượng tảo hoa, quán phong đài mộ vũ
Thiên không thu nguyệt, thường sơn cước hạ vân”.
(Sáng ngắm hoa trước cửa, chiều trông mưa trên đài - thành lệ
Thu soi trăng giữa trời, hạ nhìn mây dưới núi - hóa quen).
Nhìn theo hai chàng trai đi về phía núi, ông đồ thấy lòng vui như thời trai trẻ. Phiên chợ quê tháng Chạp như bát nước nóng rồi cũng nguội dần. Đến giờ Mùi thì còn trơ lại những chiếc quán liêu xiêu, và trong ánh nắng xế chiều vàng lành lạnh bóng ông già đang khoác chiếc hòm cũ đổ dài trên con đường sống trâu hun hút giữa đồng, đi mãi...