Báo Đại đoàn kết Chính trị

Rạng rỡ ngày Độc lập

Báo Đại đoàn kết Tăng kích thước chữ

Rạng rỡ ngày Độc lập

Báo Đại đoàn kết trên Google News

Cuộc cách mạng long trời lở đất, ngày 19/8/1945, đưa đất nước thoát khỏi đêm trường phong kiến, đập tan gông cùm của chủ nghĩa thực dân đế quốc, để người Việt Nam được là người Việt Nam. Ngày 2-9 năm đó, bằng Bản Tuyên ngôn Độc lập vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh ra nước Việt Nam mới. Từ đó, đất nước chính thức có tên trên bản đồ thế giới. Năm tháng đi qua nhưng khí thế hào hùng với sức mạnh của một dân tộc như nước vỡ bờ ngày đó vẫn chói sáng trong lòng mỗi người Việt Nam yêu nước.


Trong ngày hội lớn.

1. Tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám đã được nhiều sử gia phương Tây nhìn nhận với sự đánh giá rất cao. Trong suốt hơn 70 năm qua, nhiều tác phẩm nghiên cứu về cuộc cách mạng ấy dưới góc nhìn của người “ngoài cuộc” nhưng không hề dửng dưng, cho thấy một sự thật khách quan: Người Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Cụ Hồ đã làm nên một chiến công hiển hách.

Trong số những cuốn sách nghiên cứu công phu ấy, có thể kể đến: Histoire du Việt Nam de 1940-1952 (Phillipe Devillers, 1952), Vietnam: Sociologie d”une guerre (Paul Mus, 1952), Vietnam: The Origins of Revolution (John McAlister, 1969), Vietnam: A History (Stanley Karnow, 1981), The Vietnamese Revolution of 1945 - Roosevelt, Ho Chi Minh and de Gaulle in a World at War (S. Tonnesson, 1991), Vietnam 1945: the Quest for Power (David Marr, 1995), Ho Chi Minh: A Life (William J. Duiker, 2000)...

Trong những tác phẩm ấy, các sử gia phương Tây có những cách tiếp cận sự kiện khác nhau, có những khác biệt trong đánh giá nhưng cùng gặp nhau khi khẳng định tinh thần dân tộc của thời đại, cũng như tầm cao tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ở đây, xin được nhìn lại cuộc cách mạng Tháng Tám dưới góc nhìn của sử gia phương Tây là Phillipe Devillers (người Pháp). Phillipe Devillers (1920-2016) là một trong những sử gia phương Tây có cái nhìn sớm nhất và đúng đắn về Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam. Ông từng là Tùy viên báo chí của tướng Leclerc, đồng thời là phóng viên của báo Thế giới (Le Monde) tại Đông Dương từ 1946 đến 1948. Sau này, ông là giáo sư thỉnh giảng của Đại học Cornell, Ithaca (Hoa Kỳ), Đại học Malaysia, giáo sư tại Viện Nghiên cứu chính trị Paris kiêm Chủ nhiệm nghiên cứu tại Trung tâm Quốc gia về nghiên cứu khoa học từ 1967 đến 1987. Phillipe Devillers mất ngày 15/2/2016 tại tỉnh Macon, Pháp. Cuốn Lịch sử Việt Nam (từ 1940-1952) của ông (xuất bản năm 1952) ngay khi cuộc Kháng chiến chống Pháp của dân tộc Việt Nam đang ở vào giai đoạn khốc liệt cho thấy bản lĩnh ngòi bút của ông. Là một nhân chứng của các sự kiện, về Cách mạng Tháng Tám và Việt Minh, Phillipe Devillers nhận định: “Cuộc Cách mạng không phải là sự bùng nổ. Nó là kết quả cuối cùng của sự thấm lọc, điểm nút logic của sự thâm nhập Việt Minh vào tất cả các lĩnh vực quốc gia. Chỉ có một sự tụ hội kỳ lạ các điều kiện mới khiến cho cách mạng thực hiện được”.

Nối tiếp sự kiện tổng khởi nghĩa cướp chính quyền tại Hà Nội (19/8/1945) chính là sự kiện trọng đại: Tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (ngày 2/9/1945). Sử gia William Duiker William J. Duiker (sinh năm 1932 tại Chicago, Illinois, Mỹ) nghiên cứu chuyên ngành lịch sử Đông Nam Á tại Đại học bang Pennsylvania. Đặc biệt ông dành nhiều tâm sức tập trung nghiên cứu lịch sử Việt Nam, nhất là giai đoạn thế kỷ 20, với các chủ đề của phong trào độc lập của Việt Nam, cuộc chiến tranh Việt Nam và sự phát triển của đất nước sau khi thống nhất năm 1975. Về sự kiện nước Việt Nam mới, ông viết kĩ lưỡng về tinh thần dân tộc và tính nhân văn của một chính phủ cách mạng non trẻ trong hoàn cảnh khó khăn chất chồng của những năm 1945-1946. “Chính phủ mới đã thông qua một loạt các biện pháp khẩn cấp để chống nạn đói… Thuế nông nghiệp được giảm và sau đó miễn hoàn toàn, một sở tín dụng nông nghiệp được lập ra để giúp nông dân vay vốn dễ dàng hơn”- ông viết.

Cũng về sự kiện 2/9, năm 2015, Tạp chí La Vie International đăng bài của Giáo sư sử học người Mỹ Cecil B. Currey (1923-2013). Trong đó có đoạn: “Sáng sớm ngày 2/9/1945, dân chúng Hà Nội náo động. Cả thành phố đỏ rực màu cờ đỏ sao vàng bay phấp phới trên nóc nhà cao tầng, ở các công sở và nhà dân, trên ban công, trên cành cây, trên các cột bên bờ hồ. Các loại đèn lồng đỏ lửa; các khung cửa, biển hiệu cũng được trang hoàng hoa đỏ. Khẩu hiệu biểu ngữ bằng vải giăng ngang đường với những dòng chữ bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Hoa và tiếng Nga: “Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”, “Hoan nghênh phái bộ Đồng minh”, “Độc lập hay là chết”, “Ủng hộ Chính phủ lâm thời”. Cecil B. Currey cũng quan sát rất kỹ khi viết: “Những đứa trẻ ồn ào và phấn khích tay cầm cờ, chen chân trong đám người đông nghịt. Phụ nữ nông thôn quấn khăn vàng, thắt lưng xanh, quần túm gấu, các công nhân nhà máy, xí nghiệp quần xanh, sơ mi trắng, hàng ngũ chỉnh tề nhất. Một người vẫy tay ra hiệu, các cảm tình viên của Việt Minh huýt còi đánh trống làm nhịp, chân dập mạnh vừa đi vừa hát những bài ca cách mạng. Các tăng ni Phật tử, các thầy tu Công giáo rời khỏi nơi tôn nghiêm cùng bước theo, ngỡ ngàng trước không khí ồn ào, lộn xộn của đám đông. Ánh nắng mùa Thu rực rỡ bao trùm khắp quảng trường. Một đại đội danh dự đứng nghiêm trang trên lễ đài vừa được dựng vội vã. Ước tính số người tham dự mít-tinh hôm 2-9-1945 chắc hẳn phải lên tới con số một triệu”.

2. Trong chúng ta hôm nay, ít người được sống trong không khí những ngày Cách mạng Tháng Tám cũng như Quốc khánh 2/9/1945, nhưng tinh thần bất diệt của chuỗi sự kiện huy hoàng bậc nhất trong lịch sử dân tộc thì vẫn thấm đẫm trong trái tim khối óc mỗi người. Đó là quá khứ, nhưng là quá khứ vẻ vang song hành cùng tất cả người Việt Nam. Vẫn còn nghe đâu đây tiếng những bước chân rầm rập của những con người đứng lên đập tan gông cùm nô lệ, can đảm đón nhận những thách thức lớn lao với niềm tự hào cháy bỏng mình là người dân tự do của một nước độc lập.

Hôm nay, đi qua Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội, qua tòa nhà Bắc Bộ phủ xưa, qua phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Tràng Tiền, qua bốt Hàng Đậu, chợ Đồng Xuân... vẫn như đâu đó hồn thiêng sông núi vọng về; vẫn hiện ra trước mắt hình ảnh rạng rỡ của những con người yêu nước.

Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của cả một dân tộc. Thời điểm đó, sử sách còn ghi lại cảnh người Việt Nam đói khổ, khắp chốn thị thành đến nơi thôn dã là những con người gầy gò ốm yếu, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Những tưởng sức lực và chí lực của người Việt Nam đã bị tàn lụi, nhưng không, những con người gầy gò ốm yếu không vũ khí trong tay ngày ấy đã hiên ngang đứng dậy, kết lại thành một khối thống nhất với sức mạnh vô địch. Nếu sức mạnh tiềm tàng của dân tộc không được khơi dậy thì thật khó có thể tưởng tượng được dân tộc này lại qua khỏi được nạn đói năm Ất Dậu 1945, khi mà người ta phải lấy xe bò chở xác người chết đói nằm lăn lóc trên đường. Hôm nay, xem lại những bức ảnh của Võ An Ninh về nạn đói, càng thấy sự khủng khiếp mà dân tộc ta phải chịu đựng. Và cũng cảm nhận được sức mạnh tinh thần vô bờ bến của mỗi một người Việt Nam chúng ta.

Tinh thần bất diệt ấy cũng chính là cội nguồn sức mạnh để người Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến 9 năm đằng đẵng chống thực dân Pháp quay lại đô hộ nước ta một lần nữa. Một chính quyền non trẻ, tài lực không có, vật lực cũng không, nhưng dân tộc này đã nghe theo lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh toàn quốc kháng chiến, năm 1946. Mùa đông năm ấy nào dễ ai quên, khi Hà Nội cháy đỏ và những đoàn quân rút qua gầm cầu Long Biên lên chiến khu để trường kỳ kháng chiến. Rồi đến ngày 10/10/1954, đoàn quân chiến thắng đã trở về tiếp quản Thủ đô trong tiếng reo hò vang dội...

Lịch sử là sự tiếp nối của những sự kiện. Lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 20 là những trang vàng vĩ đại. Mang trong lòng ý chí quật cường của Cách mạng Tháng Tám, đánh Pháp xong, người Việt Nam lại làm một cuộc trường chinh kéo dài 21 năm giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Từ năm 1945 khi nước nhà độc lập cho đến chiến thắng vĩ đại mùa xuân 1975, 30 năm của những cuộc chiến tranh thần thánh nối tiếp nhau. Đó cũng là những trang sử đầy nước mắt và máu. Nước mắt của đau thương mất mát. Máu của những người hy sinh vì nước.

Tự hào về những năm tháng quang vinh ấy, càng thêm yêu đất nước mình. “Đất nước của những người con gái con trai/ Đẹp như hoa hồng, cứng như sắt thép/ Xa nhau không hề rơi nước mắt/ Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt”... Tiếp bước truyền thống cha anh, hôm nay toàn dân tộc bước tiếp vào công cuộc dựng xây. Một dân tộc đã không chịu làm nô lệ, không chấp nhận sự chia cắt thì cũng không chịu sống trong nghèo nàn, lạc hậu. Khó khăn còn nhiều, nhưng với tinh thần Cách mạng Tháng Tám, tinh thần và trách nhiệm công dân của một nước độc lập kể từ ngày Quốc khánh 72 năm trước, thì không một thế lực nào có thể ngăn được bước tiến vững chắc của cả dân tộc đi tới tương lai.

Nam Việt