TS Bùi Đức Thụ - nguyên Phó Trưởng ban Công tác đại biểu (nay là Uỷ ban Công tác đại biểu của Quốc hội) đã nhấn mạnh như vậy khi trao đổi với phóng viên Báo Đại Đoàn Kết về dự kiến giảm 50% đơn vị hành chính cấp tỉnh.
PV: Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về phương án dự kiến giảm 50% đơn vị hành chính cấp tỉnh?
TS Bùi Đức Thụ: Số lượng các tỉnh sau sắp xếp phụ thuộc vào Đề án sắp xếp tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. Sáp nhập tỉnh làm sao cho hợp lý, căn cứ vào tiêu chuẩn để sáp nhập chứ không phải cơ học theo kiểu cộng dồn.
Sắp xếp, sáp nhập cấp tỉnh để đạt mục tiêu bao trùm, tạo ra không gian phát triển, khai thác quản lý sử dụng các nguồn lực trong nền kinh tế hợp lý, hiệu quả, thay đổi về chất trong sự phát triển, tạo nên sự đột phá về tăng trưởng. Từ đó, để nước ta thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và hiện thực hoá các mục tiêu đã đặt ra đến năm 2030 và 2045.
Nhiều ý kiến cho rằng việc duy trì 63 tỉnh, thành phố đang tạo ra sự cát cứ, quan điểm của ông thì sao?
Mục tiêu quan trọng nhất của việc sắp xếp chính là hướng đến hiệu quả hoạt động của nền kinh tế. Việc tổ chức hành chính, sáp nhập địa giới hành chính, thay đổi cải cách hành chính để tạo thành các đột phá. Sự thay đổi toàn diện về thể chế không phải mục đích tự thân, mà chính là công cụ để tối ưu hoá hoạt động kinh tế, tối ưu hoá thực hiện các mục tiêu bảo vệ vững chắc quốc phòng an ninh, tạo thành môi trường xã hội thuận lợi. Từ đó phù hợp với tình hình thực tiễn và thúc đẩy phát triển văn hoá xã hội, tạo thuận lợi tốt hơn cho người dân. Và đó cũng là mục tiêu hướng đến của việc thay đổi địa giới hành chính, không chỉ là mở rộng, sáp nhập các tỉnh mà đây cũng là mục tiêu chung để xem xét và sáp nhập địa giới hành chính cấp xã.
Việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh là để đảm bảo hiệu quả hoạt động của kinh tế địa phương, và tổng thể nền kinh tế đất nước phải phù hợp, đảm bảo đủ điều kiện để phát triển, tối ưu hoá không gian phát triển nhất định. Trước sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ thì duy trì địa giới hành chính với quy mô dân số khi một số tỉnh chỉ có trên 1 triệu dân, diện tích tự nhiên khoảng 5 - 8 nghìn km2 thì gần như hạn hẹp về không gian phát triển, dẫn đến chia cắt địa giới hành chính khiến chúng ta phát triển manh mún, cát cứ, nhỏ lẻ. Từ đó dẫn đến hệ luỵ là bộ máy quản lý hành chính nhà nước ở các địa phương tăng. Vì 63 tỉnh, thành phố ở đâu cũng có các ngành, các cấp như tương đồng với trung ương.
Bộ máy phình to dẫn đến làm tăng chi thường xuyên trong điều kiện thu ngân sách nhà nước hạn hẹp, yêu cầu trả nợ gốc đến hạn và lãi là rất lớn. Yêu cầu đầu tư phát triển, tháo gỡ đột phá về cơ sở, hạ tầng, giải phóng sự phát triển của lực lượng sản xuất mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển là yêu cầu khách quan rất lớn. Hiện chi thường xuyên chiếm gần 70% ngân sách đang cản trở thực hiện mục tiêu cải cách ngân sách, tài chính công theo hướng giảm chi thường xuyên, tăng chi đầu tư phát triển và chi trả nợ, tăng sự chống chịu của nền kinh tế khi có biến động kinh tế xã hội trong và ngoài nước. Rõ ràng muốn lành mạnh hoá kinh tế tài chính, thúc đẩy tăng trưởng, cải thiện đời sống nhân dân thì phải giảm chi thường xuyên, giảm biên chế tổ chức bộ máy. Với nguồn lực quản lý nhà nước như hiện tại, việc chia nhỏ quá nhiều đơn vị hành chính nhà nước dẫn tới phân tán lực lượng.
Bên cạnh việc giảm số tỉnh thì quan trọng nhất trong việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh lần này là tạo cơ hội cho tỉnh phát triển sau sắp xếp, thưa ông?
Muốn tiến hành đổi mới, chúng ta phải xem xét, rà soát các cản trở ách tắc đối với sự phát triển. Trong đó phải thay đổi tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, cũng như bộ máy của các cơ quan trong toàn hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở. Làm được việc này thì địa phương sẽ được mở không gian phát triển, kinh tế mở ra.
Trước kia chật hẹp thì sao thuận lợi bằng việc khi sáp nhập diện tích sẽ tăng gấp 1,5-2 lần, như vậy không gian phát triển được mở ra. Trước kia chia cắt thành cát cứ kinh tế địa phương, tỉnh nào lo tỉnh đó. Bây giờ sáp nhập mở ra không gian lớn hơn. Cùng với chính sách điều tiết của Chính phủ, trung ương, gắn kết giữa các tỉnh đó với phương thức, cơ chế mới thì tính liên kết vùng và các vùng kinh tế sẽ được đảm bảo tốt hơn, phát triển mạnh hơn.
Sáp nhập các tỉnh có nhiều tiêu chí, không chỉ diện tích, dân số mà còn phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế của từng vùng, từng địa phương, phải phù hợp với lợi thế phát triển kinh tế từng vùng. Ví dụ cả một dải như kinh tế biển có sự đồng nhất về nguồn lực, địa kinh tế, các điều kiện xã hội có thể sáp nhập tạo thành một tổng lực lớn hơn trong phát triển chiến lược kinh tế. Sáp nhập phải căn cứ vào tình hình kinh tế, lợi thế, nguồn lực, điều kiện quy hoạch tổng thể, phát triển vùng, phát triển chung của đất nước, tương đồng về điều kiện văn hoá xã hội, kể cả căn cứ vào yêu cầu bảo vệ quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Khi lựa chọn hình thức tổ chức chính quyền địa phương ở phạm vi phù hợp với tình hình thực tiễn, và yêu cầu phát triển thì nền kinh tế mới cất cánh, đất nước mới thực sự bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển của dân tộc.
Trân trọng cảm ơn ông!