Trong xu thế chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, công nghệ số đang mở ra cách tiếp cận mới cho lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Đặc biệt trong công tác bảo tồn và quảng bá di sản. Việc số hóa không chỉ góp phần lưu giữ, bảo vệ những giá trị quý báu mà còn tạo nền tảng để cho sáng tạo và phát triển kinh tế.
Bước tiến định danh số
Việt Nam đang nắm giữ một kho tàng di sản văn hóa khổng lồ: khoảng 40.000 di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; gần 65.900 di sản văn hóa phi vật thể tại 34 tỉnh, thành; 130 di tích quốc gia đặc biệt, 3.620 di tích quốc gia, hơn 10.000 di tích cấp tỉnh; 562 di sản phi vật thể trong Danh mục quốc gia; 294 bảo vật quốc gia cùng khoảng 200 bảo tàng lưu giữ trên 4 triệu hiện vật. Trước nguồn tài nguyên dồi dào ấy, việc đưa di sản lên không gian số không chỉ mở ra lối đi bền vững cho công tác bảo tồn, mà còn tạo cơ hội khai thác kinh tế số, góp phần thúc đẩy công nghiệp văn hóa phát triển.
Tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, công nghệ định danh số đã được áp dụng cho 10 cổ vật triều Nguyễn. Mỗi hiện vật được gắn chip NFC và định danh duy nhất bằng công nghệ Nomion của Phygital Labs. Khác với mã QR thông thường, chip NFC Nomion có khả năng mã hóa dữ liệu, chống làm giả và bảo mật cao, gắn kết chặt chẽ giữa hiện vật gốc và phiên bản số. Song song, công nghệ blockchain còn chứng thực quyền sở hữu và tạo ra “tài sản số” từ cổ vật. Nhờ đó, chỉ với một thao tác quét điện thoại thông minh, khách tham quan có thể truy cập toàn bộ thông tin về lịch sử, giá trị văn hóa, thậm chí trải nghiệm hình ảnh 3D trực quan và sinh động.
Không chỉ dừng lại ở bảo tàng, nhiều không gian văn hóa lớn cũng đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số. Tiêu biểu, dự án “Du lịch Hoàng thành Thăng Long trong không gian 3D” đã dựng lại toàn bộ các hạng mục trọng yếu của khu di sản – từ nền móng Điện Kính Thiên đến hệ thống khảo cổ học – bằng mô hình 3D chân thực, tích hợp thuyết minh tự động và hình ảnh tương tác. Nhờ vậy, du khách có thể tham quan Hoàng thành từ xa qua nền tảng trực tuyến, hoặc trải nghiệm thực tế tăng cường (AR) ngay tại di tích. Công nghệ này đã xóa bỏ giới hạn về không gian, thời gian, đồng thời mở hướng cho mô hình du lịch thông minh, phù hợp xu thế số hóa toàn cầu.
Số hóa không chỉ là giải pháp bảo tồn mà còn tạo điều kiện để di sản hiện diện trong đời sống hiện đại. Một ví dụ tiêu biểu là hình tượng linh thú Nghê – biểu tượng thuần Việt trấn giữ Văn Miếu - Quốc Tử Giám – đã được định danh số và phát triển thành cuốn sách vật lý số đầu tiên tại Việt Nam. Dự án này vừa lan tỏa giá trị nghiên cứu về nghê, vừa cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa công nghệ và văn hóa, giúp di sản bước ra khỏi không gian bảo tàng để hòa nhập với đời sống đương đại.
Ths Nguyễn Đắc Tới – nguyên Trưởng phòng Nghiên cứu di sản (Viện Nghiên cứu văn hóa và phát triển) cho rằng, việc xác định và lưu giữ thông tin di sản qua số hóa có vai trò quan trọng, bởi không chỉ tạo ra nền tảng tổng hợp và thống nhất cho bảo tồn, nghiên cứu, mà còn phục vụ cho việc khai thác giá trị di sản trong phát triển kinh tế, giáo dục thế hệ trẻ và quảng bá văn hóa ra thế giới.
Đánh thức tiềm năng kinh tế từ di sản số
Công nghệ số đem đến những cơ hội kinh tế cho ngành công nghiệp văn hóa. Thông qua việc bán vé tham quan triển lãm trực tuyến, sản xuất và phân phối các sản phẩm phái sinh, cũng như kinh doanh bản sao số của hiện vật, giá trị di sản được khai thác theo cách hiện đại và bền vững hơn. Không chỉ góp phần bảo tồn và lan tỏa giá trị văn hóa, mô hình này còn tạo nguồn thu đáng kể cho các tổ chức văn hóa, biến di sản từ “tài sản tĩnh” thành nguồn lực kinh tế năng động.
PGS.TS Lê Quý Đức - nguyên Phó Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) cho rằng, công nghệ giúp cho di sản văn hóa phát huy mạnh mẽ hơn những giá trị và đem lại lợi ích cho con người về mặt văn hóa và cả vật chất, kinh tế. Trên những nền tảng văn hóa truyền thống đó có thể sáng tạo thêm những giá trị mới cho di sản.
“Công nghệ đã tạo ra những không gian rộng lớn truyền đi những giá trị của di sản văn hóa. Thường những giá trị truyền thống của một dân tộc hay một cộng đồng chỉ có ý nghĩa trong cộng đồng đó. Tuy nhiên, ngày nay, công nghệ có thể nhân lên, mở rộng không gian tới cả thế giới. Không chỉ góp phần vào việc bảo tồn và lan tỏa giá trị di sản, mà còn là nhân tố trong việc thúc đẩy nền kinh tế di sản”, ông Đức nói.
Cùng quan điểm, theo Ths Nguyễn Đắc Tới, việc tạo ra sản phẩm từ di sản văn hóa không chỉ giúp bảo tồn giá trị truyền thống mà còn thúc đẩy sự phát triển sáng tạo và kinh tế trong cộng đồng. Thông qua công nghệ số hóa, các đơn vị văn hóa sở hữu di sản, di vật có thể tạo ra các sản phẩm phái sinh. Qua đó, họ có thể tạo ra nguồn thu nhập để tái đầu tư và quảng bá di sản văn hóa số của các cổ vật, kết nối toàn cầu. Điều này hỗ trợ việc bán vé triển lãm số, hỗ trợ công tác bảo tồn và thúc đẩy sản xuất và phân phối các giá trị kinh tế cao của di sản.