4 giờ 30 phút sáng, tỉnh giấc, từ trên ban công tầng 5 khách sạn Q., tôi phòng tầm mắt nhìn ra biển. Phía chân trời vẫn chỉ một mầu xám xịt, “kéo” tầm mắt lại gần hơn, trên bãi biển Hải Hòa (phường Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa) đã thấy nhộn nhịp.
Chợ cá ngay trên bờ cát
Cuối cùng thì tôi cũng nhập được vào khung cảnh nhộn nhịp kẻ mua người bán của “chợ cá” họp ngay trên bờ cát còn mềm ướt. Phải công nhận rằng “trong chợ” có rất nhiều loại cá, tôm, cua, ghẹ cùng nhiều sản phẩm biển khác được bầy bán. Ghé vào một mẹt hàng do một chị chừng ngoài bốn mươi tuổi ngồi bán, rất may là chị bán cá không “mắng” bởi tôi cứ hỏi giá loạn cả lên, vừa hỏi giá tôm đã chỉ tay hỏi giá ghẹ. Chị bán hàng dường như đã quen với cách hỏi giá của dân du lịch nên chẳng “phật ý”. Tay phải chị bới bới chậu tôm. Tay trái chị với với thùng ghẹ.
Được thể nên tôi ngồi xuống trước “sạp cá” mà hỏi chuyện. Chị Lan, người bán cá, cho biết: “Em người Hải Hòa này. Em cùng mấy bà mấy chị ra chợ từ sớm”. Chợ cá Hải Hòa hay chính xác hơn là chợ cá họp trên bãi biển Hải Hòa họp từ tầm bốn giờ sáng. Chị Lan bảo: “Tầm ấy các tàu kéo lưới cá cặp bờ. Chúng em ra sớm mua cá từ tàu lưới và bán luôn cho tiện”.
“Cho tiện” như chị Lan nói có nghĩa là chợ cá này hoạt động tự phát. Họp trên bãi cát chỗ mấy con tàu kéo lưới cặp bờ. Chị Lan chợt quay người chỉ tay ra biển: “Bác thấy mấy tàu cá kia không? Cũng là người Hải Hòa cả đấy”. Tôi đùa: “Tàu cá nhà chị là chiếc nào trong năm chiếc kia?”. Thật thú vị, chị Lan không ngần ngại nói luôn: “Nhà em không có tàu cá, nhưng nhà anh em họ hàng thì có. Chồng em cũng đi tàu với mọi người. Đấy cái anh cởi trần đang kéo lưới kia kia”.
Thì ra, chợ cá tự phát lúc đầu chỉ là thu gom cá mới đánh bắt đêm rồi mang vào chợ Còng cách đây khoảng hơn hai cây số để bán. Nhưng rồi những người đi chợ nhận thấy mùa này khách du lịch đến bãi biển Hải Hòa khá nhiều. Du khách lại thích trực tiếp ra bãi biển vừa xem vừa mua tôm cá nên chợ họp kéo dài thêm để phục vụ du khách. Chị Lan bảo: “Người tôm cá tươi mới đánh lưới xong thì ở chợ nay giờ còn bán cả cá tôm khô, cua ghẹ ướp đá nữa. Các bác tha hồ mua mang về nhờ nhà hàng chế bán cho, ăn luôn cho tươi roi rói. Còn nếu các bác muốn mua đem về thì bọn em đóng thùng xốp ướp đá. Thoải mái tới chiều về tới Hà Nội cua cá vẫn tươi. Hoặc muốn mua cá tôm khô cũng được. Em chỉ ngồi đây khoảng đến chín giờ thôi. Mấy chị bán hàng ướp hàng khô thì ngồi đến nắng rát đầu mới dọn hàng”.
Theo lời chị Lan, tôi đứng dậy đảo qua mấy hàng ướp đá, hàng khô. Quả tình dân chợ thích ứng nhanh nhậy thật. Khách du lịch, tức người mua cũng đủ dạng. Mua ăn có. Mua mang về có. Có cung thì ắt có cầu. Mà kể ra cũng rất tiện. Tôi nhớ những lần đi biển khác chúng tôi muốn mua hàng ướp đá, hàng khô để mang về hoặc phải nhờ nhà hàng đặt cho. Hoặc là theo số điện thoại mà nhà hàng nào cũng có để gọi đặt hàng. Nhìn chúng cách mua kiểu đặt hàng là năm mươi năm mươi. Có thể mua được hàng đúng ý. Cũng có thể không may mua hàng xong đem về nhà mở ra thì cứ đem trả. Mua chọn trực tiếp trên chợ cá họp trên bãi biển đúng là tiện và “mắt thấy tai nghe”.
Những ngư dân kéo lưới
Rời “chợ cá”, tôi hăm hở lội nước sâm sấp bàn chân để tới chỗ mấy con tàu đang neo đậu. Thú thực, đây là lần đầu tiên tôi được mục sở thị cảnh ngư dân kéo lưới. Anh Hùng, một ngư dân đang vác can dầu xuống tàu, bị tôi “túm chuyện” đã cho biết: “Lưới của chúng tôi được gọi là lưới rùng bác ạ. Đây là một loại lưới Thông thường dài từ 500 mét tới cây số rưỡi. Khi tàu thả giăng lưới xong thì chúng tôi phải dùng tới hai con tàu chạy song song cách nhau mấy trăm mét để “quét cá”. Tàu cứ kéo quét xuôi chừng vài cây số thì lại quay đầu kéo ngược tới ba giờ sáng hôm sau thì ghé bờ”.
Anh Hùng cho biết: “Khi tàu ghé bờ cũng là lúc công việc kéo lưới mà chúng cháu gọi là kéo rùng được bắt đầu. Để thực hiện việc kéo rùng, ở mỗi đầu dây sẽ có khoảng 10 người đều là anh em họ hàng cả, cùng đồng sức, với nhịp đều tay để kéo lưới vào bờ”.
Tôi tò mò: “Việc kéo rùng ở mình có lâu chưa?”. Anh Hùng cười: “Cháu cũng chả nhớ nhưng nghe các cụ kể thì nghề kéo rùng này có từ lâu lắm rồi. Người dân vùng biển Thanh Hóa coi đây không chỉ là công việc mưu sinh mà còn là một phần tinh thần, một truyền thống quý báu được lưu giữ qua nhiều thế hệ của những người làm nghề chài lưới đấy bác ạ”.
Nghe anh Hùng cho hay thế tôi mới hiểu ra, cho dù là công việc gì thì cũng đọng lại ý nghĩa văn hóa. Mới hay văn hóa đã có từ trong cuộc sống và trong lao động. Tôi hỏi thêm: “Nghề kéo rùng này còn có gì thêm nữa?”. Anh Hùng bảo: “Nghề kéo rùng đòi hỏi sự gắn bó trong hiệp đồng, đòi hỏi sự mạnh mẽ của những người làm nghề với biển ạ”.
Những người kéo rùng trên bãi biển Hải Hòa sáng nay có thêm sự trợ giúp của du khách. Cũng là hiếu kỳ thôi nhưng nhờ có sự trợ giúp này mà tấm lưới vừa cực dài vừa nặng được từ từ kéo lên bờ. Lưới tới bờ cũng là lúc công việc gỡ tôm cá được thực hiện luôn. Anh Hùng bảo: “Gỡ loại nào bỏ riêng loại đó để dân thu gom đến mang đi cho tiện”.
Qua câu chuyện với anh Hùng tôi mới biết: Không chỉ có ở biển Hải Hòa này mà dọc tuyến bờ biển dài hơn 100 km ở tỉnh Thanh Hóa, như các vùng biển: Sầm Sơn, Quảng Xương, Hoằng Hóa… nghề “kéo rùng” vẫn được gìn giữ và phát triển bởi nhiều thế hệ ngư dân, góp phần bảo tồn nét đẹp văn hóa trong đời sống người dân ven biển. Điều này đã tạo nên một sản phẩm du lịch độc đáo dành cho du khách mỗi khi tới thăm quan, nghỉ dưỡng và khám phá vùng biển xứ Thanh.
Người đi bắt bề bề sớm
Tạm rời khu vực kéo rùng. Tôi tiếp tục cuộc “khám phá” bãi biển của mình bằng việc đi theo một người đàn ông. Người đàn ông này có vẻ “đơn độc” hơn khi chỉ có thấy một mình ông với một dụng cụ cầm tay vừa đi vừa chăm chú nhìn bãi cát.
Lại gần hơn tôi nhận ra người đàn ông này đang dùng dụng cụ tự chế của mình bằng đoạn ống nước loại nhựa Tiền phong, đường kính cỡ ba xăng ti mét, dài độ một mét. Một dụng cụ chế tác giống một chiếc bơm xe đạp. Người đàn ông chăm chú nhìn xuống bãi cát rồi rất chính xác sục đầu ống xuống cát. Ông làm động tác rút như rút bơm tiêm lên rất nhanh gọn.
Sau khi hút ống xong thì người đàn ông ấy lại thụt một cái như bơm ấy. Tôi để ý thấy từ trong ống rơi ra một vật gì đó. Tức thì bấy giờ xuất hiện một người phụ nữ sách sô nhỏ cúi xuống nhặt cái vật vừa phụt ra lên và bỏ vào sô. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Đó là cái gì đấy?”.
Người phụ nữ chẳng nói chẳng rằng chìa chiếc sô về phía tôi để tôi tự nhìn tự biết. Thì ra đó là một con bề bề cỡ bằng ngón tay. Nhìn thêm nữa thì tôi nhận ra trong sô đã có rất nhiều con bề bề trong đó.
Bấy giờ người đàn ông mới bảo: “Gọi là hút bề bề thôi”. Hay. Nhưng cũng phải công nhận người hút bề bề phải có kinh nghiệm thì mới nhận biết được trên bãi cát “mênh mông” ấy lỗ nhỏ tí xíu nào là lỗ có bề bề đang ẩn trú. Và thế là thụt một cái rồi đưa tay bỏ bề bề vào sô.
Ông Quý, người hút bề bề, cho hay: “Phải hút ngay từ khi nước triều mới rút. Cát còn ẩm chứ để lâu cát khô và bề bề chui sâu không hút được”. Tôi hỏi: “Mỗi sáng đi hút như thế này có được nhiều bề bề không?”. Ông Quý cười: “Nó như đi câu ấy mà. Bữa nhiều bữa ít. Nhìn chung cũng được vài ba cân. Đủ tiền mua gạo thôi”.
Được hay dụng cụ hút này ngoài hút bề bề ra còn hút cả tôm nữa. Lại thêm ngạc nhiên về “sáng tạo” của người lao động khi tạo ra dụng cụ “kiếm cơm” tiện dụng mà đơn giản. Theo như ông Quý cho biết thì sử dụng ống hút này rất nhẹ nhàng. Phụ nữ, trẻ con đều sử dụng được.
Tôi ngỏ ý muốn được “thử sức” với ông hút bề bề. Ông Quý đồng ý ngay. Chỉ mỗi tội tôi chẳng biết lỗ nào, chỗ nào có bề bề, có tôm cả. Cứ chọc đại ống xuống cát rồi hút, rồi phụt. Chẳng ra bề bề hay tôm, chỉ thấy toàn cát với cát thụt ra thôi. Ông Quý tế nhị không cười chê mà cũng chẳng tỏ ý xem thường. Thì ra, việc tưởng đơn giản dễ dàng nhưng không có “học” không thể làm được. “Phải biết cách nhận hang, nhận lỗ kia” - ông Quý bảo.