Văn chương Nhật Bản, dường như ở thời nào cũng vậy, luôn biết cách sản sinh những văn gia đặc dị. Đặc dị từ cuộc đời đến tác phẩm. Đặc dị trong cách chất vấn đời sống và trong sự lao mình đến tuyệt đích của một sắc thái biểu cảm. Tuyệt đích chán chường khi cái cao nhã bị bức tử, đó là điều ta sẽ bắt gặp ở Dazai Osamu (1909-1948), một trong những tác giả tiêu biểu của văn xuôi Nhật Bản thời kỳ vừa chấm dứt Đại chiến thế giới lần thứ II. Cái cao nhã đang bị bức tử, điều đó há không phải căn bệnh của thời chúng ta đang sống hay sao?
Văn nghiệp của Dazai Osamu không đồ sộ như nhiều nhà văn Nhật Bản khác, nhưng may mắn thay, lại có những tác phẩm để đời. “Tà dương” (được xuất bản năm 1947 – một năm trước khi ông tự sát – do Hoàng Long dịch, Phương Nam Book và NXB Hội Nhà văn, 2012) là tác phẩm được giới nghiên cứu văn học cả trong và ngoài Nhật Bản đánh giá rất cao. Chính từ cuốn tiểu thuyết này mà trong từ điển tiếng Nhật đã xuất hiện thêm một từ “Tà dương tộc” dùng để chỉ sự sa sút của giai cấp thượng lưu vì một biến chuyển gấp gáp của xã hội.
Tà dương, tiểu thư Kazuko xưng Tôi trong tiểu thuyết, kể chuyện tình cảnh xuống dốc nhanh dần đều của tầng lớp quý tộc Nhật Bản ngay sau khi nước Nhật thất trận. Gia đình Kazuko gồm ba người: bà mẹ, Kazuko, và cậu em trai Naoji, ba số phận cuộc đời nhuốm màu của tà dương theo những cách khác nhau, nhưng đều để lại dư vị đắng chát trong người đọc…
Xuất thân gia đình quý tộc, được đào luyện trong môi trường giáo dục nghiêm cẩn và đậm chất quý phái, Kazuko mang trong mình đầy đủ những đặc tính của một tiểu thư khuê các: tâm hồn lãng mạn bay bổng, tinh tế và nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, ham đọc sách và ưa thích thưởng ngoạn nghệ thuật, có thể khóc bất cứ lúc nào, mong manh, dễ vỡ trước những nghịch cảnh và nỗi đau khổ của kẻ khác. Nhưng, ở đằng sau và ở bên trong cái vẻ mong manh dễ vỡ ấy của Kazuko là cả một “khối sống” mạnh mẽ. Trong thời chiến, theo lệnh tổng động viên, cô gái quý tộc ấy có thể đào đất, vác đá, xẻ gỗ, làm mọi công việc nặng nhọc như mọi người khác. Sau thời chiến, gia cảnh sa sút, phải bán nhà ở thành phố để về nông thôn sinh sống, Kazuko cũng sẵn sàng làm tất cả những công việc đồng áng như mọi nông phu phải làm để duy trì cuộc sinh tồn của mình.
Tuy nhiên, trong sự tự ý thức, “khối sống” của Kazuko là sống để xác thực triết lý của một triết gia cộng sản mà cô yêu thích, Rosa Luxemburg: “Con người được sinh ra vì tình yêu và cách mạng”. Cô yêu và tự nguyện có con với nhà văn Uehara, một người lớn tuổi hơn cô rất nhiều, đã có gia đình, một ông già xấu xí cả về hình thức và tư cách, luôn be bét say sưa tối ngày trong các tửu điếm, như minh chứng cho nguồn gốc quý tộc của mình. Cô vừa yêu vừa không thôi ghê tởm Uehara, nhưng để thực hiện cuộc “cách mạng”, cô vẫn phải có sự thỏa hiệp. Kazuko, khi đã mang trong mình giọt máu của ông ta, trong bức thư cuối cùng gửi cho Uehara, cô viết: “Cách mạng vẫn chưa được tiến hành một chút nào cả. Và vẫn cần nhiều hơn nữa, thêm nữa những nạn nhân cao quý và đáng thương. Cái đẹp đẽ nhất trong cuộc đời chính là nạn nhân”. Trở thành nạn nhân, thành vật hiến tế cho cuộc cách mạng của chính mình, là lý tưởng hay ảo tưởng? Dù sao chăng nữa, đó cũng chính là động lực cho “khối sống” của Kazuko trong bối cảnh của một cuộc sống thực tế đã trở nên quá đỗi khó sống.
Đại diện cho khả năng “không sống”, đó là nhân vật Naoji, em trai của Kazuko. Chân dung tinh thần của nhân vật này thể hiện rõ ràng và đầy đủ nhất trong bức thư Naoji viết cho chị trước khi anh tự sát. Có thể nói một cách ngắn gọn. Khác với nhân vật Meursault trong tiểu thuyết “Người xa lạ” của nhà văn Pháp Albert Camus, nhân vật Naoji của Dazai Osamu vẫn còn có ít nhất một điều khiến anh phải chần chừ trước khi quyết định chấm dứt cuộc sống. Đó là bà mẹ. Naoji yêu mẹ, bởi bà là biểu tượng tuyệt hảo của “quý tộc tính”: cao sang và tao nhã tuyệt đối, trong mọi hành động mọi cử chỉ - từ cách húp thìa súp đến việc ngồi thụp xuống bụi cây để tiểu tiện. Với Naoji, “quý tộc tính” không phải một thứ đặc quyền giai cấp mà là một giá trị chuẩn mực của đời sống, một phẩm chất nhân cách đáng ngưỡng vọng. Khi bà mẹ chết – vì bệnh ho lao, mà thực chất là vì nghèo, không đủ tiền để thuốc men bồi bổ - với Naoji, đó cũng là cái chết của một biểu tượng, và anh chẳng còn lý do gì để mà luyến tiếc cuộc sống. Tuy nhiên, bức thư tuyệt mệnh của Naoji cho thấy, từ cái sống đến cái chết của anh không hề là một hành trình nhận thức đơn giản, một chiều. Và thực tế là Naoji đã làm đúng như thế, bằng cách giao lưu bù khú với những “thường dân”, như Uehara và đám bạn bè của ông ta, lăn lóc trong những tửu điếm, nhà thổ và nha phiến. Nhưng, sự “dấn thân” của Naoji chỉ là một công phu giả dối vụng về, nó khiến anh ngày một thêm căm ghét chính mình và ngày càng trở nên xa cách với nhân gian.
Theo cách tính toán ngộ nghĩnh và cũng đầy bi ai của Naoji, thì sự đê tiện của anh có 60% là phỉnh gạt tự tạo, còn lại là đê tiện thật. Hãy chú ý tới cái tỷ lệ không hề là ngẫu nhiên. Nó nói lên rằng về cơ bản Naoji vẫn không ngừng tự ý thức về nguồn gốc của mình, không ngừng bám vào ý niệm “quý tộc tính”, cho dẫu anh luôn làm mọi việc – mà anh gọi là “đê tiện” - chỉ cốt để thoát khỏi cái bóng quý tộc nơi mình. Chính vì thế mà anh nhận ra một sự thật, ít nhất là một sự thật cho riêng mình, về câu nói: “Con người tất cả đều như nhau cả thôi”. Tự biết rằng dù có nỗ lực gồng mình lên đến mấy cũng không sao thỏa hiệp được với cái tư tưởng ấy, cái tư tưởng đang và sẽ còn thống trị thế giới này, Naoji quyết định lựa chọn khả năng “không sống”: anh tự sát.
“Sống, hay không nên sống. Đó là vấn đề. Chịu đựng tất cả những viên đá, những mũi tên của số mệnh phũ phàng, hay là cầm vũ khí vùng lên mà chống lại những sóng gió của biển khổ, chống lại để mà diệt chúng đi, đằng nào cao quý hơn. Chết, là ngủ. Không hơn. Và tự nhủ rằng ngủ đi tức là chấm dứt mọi đau khổ của cõi lòng và muôn vàn vết tử thương mà hình hài phải chịu đựng, kết liễu cuộc đời như thế, chẳng đáng mong muốn sao?”. (Hamlet, bản dịch Việt ngữ của nhóm Đào Anh Kha, Bùi Ý, Bùi Phụng. NXB Văn học, 2008). Đoạn độc thoại bất hủ này của chàng hoàng tử giả điên Hamlet thực chất là một câu hỏi lớn mà hàng trăm năm nay vẫn cứ treo trong tâm thức nhân loại. Sau William Shakespeare (1564–1616), dường như mỗi thế hệ tác giả văn học, nhất là ở những nền văn học lớn, đều có những người đau đáu đi tìm đáp án cho câu hỏi này. “Tà dương” của Dazai Osamu, có lẽ là một kiểu câu trả lời, của ông và của cả một thế hệ nhà văn Nhật Bản đầy tài năng cùng thời với ông: “Sống” hay “không sống” đều là bi kịch đối với kiếp người. Nhìn từ góc độ xã hội học thuần túy, người ta sẽ dễ cho rằng điều này phản ánh tâm trạng vỡ mộng và bế tắc đến cùng cực của một bộ phận nào đó người Nhật thời hậu chiến. Nhưng, có lẽ người viết bài này đã quá đơn giản hóa khi khái quát, vấn đề hình như không chỉ là thế. “Sống” hay “không sống” trong “Tà dương” còn là sự thức nhận về một nỗi đau trong đời sống tinh thần của thời hiện đại: Cái tầm thường (chứ không chỉ là cái giả dối, cái xấu, cái ác) đang bức tử cái cao nhã (chứ không chỉ là cái chân thực, cái đẹp, cái thiện). Đó là điều đáng nói nhất ở tiểu thuyết “Tà dương”, một tác phẩm dường như có rất ít điều để nói nếu nó chỉ được nhìn nhận ở góc độ lối viết, kỹ thuật viết.