Giáo dục

Tài chính xanh: Triển vọng của Việt Nam và bài học từ quốc tế

Thu Hương 26/06/2025 20:23

Việt Nam đang trong quá trình thực hiện các giải pháp và chương trình, chính sách nhằm bảo đảm mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 cũng như mục tiêu phát triển bền vững. Trong đó tài chính xanh, y tế bền vững, và năng lực tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) là ba trụ cột quan trọng.

Cơ hội song hành cùng thách thức

Chia sẻ tại hội thảo khoa học quốc tế “Tài chính xanh cho phát triển bền vững” do Trường Đại học Tài chính - Ngân hàng Hà Nội (FBU) và Trường Đại học Tài chính trực thuộc Chính phủ Liên bang Nga (FinU) tổ chức ngày 26-6, bà Đặng Thị Thủy, Trưởng phòng Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính cho biết Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức cũng như triển vọng trong việc phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam. Bà Thủy nhấn mạnh vai trò của thị trường các-bon trong việc hỗ trợ Việt Nam đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Thị trường được xây dựng dựa trên các cơ sở pháp lý như Luật Bảo vệ Môi trường 2020, Nghị định 06/2022/NĐ-CP và Nghị định 68/2022/NĐ-CP, với các thành phần gồm Hàng hóa giao dịch là tín chỉ các-bon và hạn ngạch phát thải khí nhà kính; chủ thể tham gia gồm nhà đầu tư, cơ sở kiểm kê khí nhà kính, tổ chức dự án tín chỉ các-bon và tổ chức hỗ trợ giao dịch. Về hạ tầng kỹ thuật là sàn giao dịch các-bon do Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội vận hành, với hệ thống đăng ký và thanh toán của Tổng Công ty Lưu ký và Bù trừ Chứng khoán Việt Nam. Cơ quan quản lý là Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ ngành để giám sát và phân bổ hạn ngạch.

“Trong khuôn khổ Chương trình CEFIM II của OECD, Việt Nam đẩy mạnh nghiên cứu cơ chế tài chính, nâng cao nhận thức SMEs, phát triển tín dụng xanh qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB), và tổ chức hội thảo chia sẻ kinh nghiệm. Thách thức bao gồm hoàn thiện khung pháp lý, đầu tư công nghệ, và nâng cao năng lực doanh nghiệp. Với sự hỗ trợ từ OECD, thị trường các-bon hứa hẹn trở thành động lực cho tăng trưởng xanh” – bà Thủy nêu quan điểm.

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại hội thảo. Ảnh: Nguyễn Tâm.
TS Nguyễn Thị Hải Bình (người ngoài cùng bên trái) và bà Đặng Thị Thủy (người thứ 2 từ trái sang) chụp ảnh lưu niệm cùng các đại biểu tại hội thảo. Ảnh: Nguyễn Tâm.

TS Nguyễn Thị Hải Bình, Trưởng ban Nghiên cứu và Điều phối Chính sách Giám sát, Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia nhìn nhận Việt Nam đang trong quá trình thực hiện rất nhiều các giải pháp cũng như các chương trình chính sách nhằm bảo đảm mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 cũng như mục tiêu phát triển bền vững. Chẳng hạn, đến nay Việt Nam đã có nhiều trường hợp điển hình phát triển thành công trái phiếu xanh như Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Bidv, Ngân hàng TMCP Tiên Phong TPBank, Tập đoàn Hòa Phát, Tập đoàn Vingroup… Thị trường tài chính xanh của Việt Nam đang trong quá trình phát triển. Và để phát triển một cách hiệu quả, đảm bảo huy động được nguồn vốn phát triển bền vững đòi hỏi nguồn vốn trong thời gian tới cần rất lớn.

Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cũng chỉ ra một số vấn đề đang đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đó là làm sao để phát huy hiệu quả của công cụ tài chính xanh nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững. Theo đó, còn rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong thời gian tới như cần hoàn thiện khung hành lang pháp lý của Việt Nam để đảm bảo cho việc phát triển của thị trường tài chính xanh, ban hành danh mục phân loại xanh quốc gia để áp dụng cho tất cả các tổ chức tài chính, nhãn hàng, các doanh nghiệp… để tiếp cận tín dụng một cách thống nhất hoặc phát hành được trái phiếu xanh, thực hiện huy động vốn…

Hiện chưa ban hành danh mục này nên đang gây khó khăn khi áp dụng đồng bộ các tiêu chí phân loại như làm sao phát hiện được thế nào là dự án xanh, thế nào là sản phẩm tài chính xanh, hoạt động của thị trường tài chính xanh và đặc biệt là danh mục tài chính xanh… Mặc dù có thể áp dụng theo các tiêu chí của quốc tế nhưng vấn đề đặt ra, ai là cơ quan xác nhận sản phẩm, chương trình, dự án đó là sản phẩm, chương trình, dự án xanh, để doanh nghiệp có thể sử dụng những chứng chỉ đó để sử dụng cho các hoạt động huy động vốn của mình. Thứ hai là trách nhiệm của cơ quan xác nhận. Thứ ba là cơ chế quản lý, giám sát cũng như chia sẻ thông tin … ra làm sao. Đó là vấn đề quan trọng khi xây dựng danh mục cần lưu ý.

TS Bình cũng chỉ ra một số quan ngại của các tổ chức tài chính về những rủi ro có thể xảy ra cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi phát triển các dự án xanh đôi khi có thể gây ra sự chậm trễ hoặc tạo ra khoảng cách trong việc đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững. Những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như các rủi ro về thiên tai, vấn đề nợ xấu… cũng có thể khiến các tổ chức tín dụng quan ngại về việc cung cấp nguồn tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Bài học kinh nghiệm từ quốc tế

10(7).png
GS Boris Rubtsov phát biểu tại hội thảo Tài chính xanh cho phát triển bền vững.

GS Boris Rubtsov (Đại học Tài chính thuộc Chính phủ Liên bang Nga) đã điểm lại một số cột mốc quan trọng trong sự phát triển của thị trường tài chính xanh tại Nga. Năm 2018, phát hành trái phiếu xanh đầu tiên bởi một công ty tái chế rác thải tại Siberia. Năm 2019, sàn Giao dịch Moscow (MOEX) ra mắt Khu vực Phát triển Bền vững với 36 trái phiếu xanh, xã hội và bền vững, gia nhập Liên minh Sàn Giao dịch bền vững Quốc tế (SSE).

Năm 2022, khởi động giao dịch tín chỉ các-bon trên Sàn Giao dịch hàng hóa Quốc gia (NTB), với các giao dịch đầu tiên vào năm 2023 và 2025 bởi SIBUR và Gazprom.

Tính đến cuối 2024, Nga có 26 trái phiếu xanh trị giá 4,3 tỷ USD, so với 6 trái phiếu xanh trị giá 0,43 tỷ USD tại Việt Nam. Mặc dù đối mặt với thách thức từ sự vắng bóng nhà đầu tư nước ngoài, Nga vẫn phát triển nhờ MOEX và chính sách hỗ trợ. Những kinh nghiệm này là bài học cho Việt Nam trong việc xây dựng thị trường tài chính xanh.

Trong lĩnh vực tài chính y tế bền vững, GS Gary Day (Đại học Công nghệ Queensland, Úc) đã phân tích mô hình tài chính y tế của Úc, nhấn mạnh sự cần thiết của tài trợ bền vững. Một số điểm nổi bật được GS đề cập là hệ thống Medicare với bảo hiểm y tế toàn dân đảm bảo tiếp cận công bằng, mô hình tài trợ hỗn hợp thúc đẩy chăm sóc ban đầu và phòng ngừa, đánh giá công nghệ y tế khi các cơ quan như PBAC và MSAC tối ưu hóa chi phí.

Một số thách thức cũng đặt ra với Úc đó là phân mảnh tài trợ và thiếu hụt lao động y tế ở vùng nông thôn. GS Gary Day đề xuất tái cân bằng đầu tư vào phòng ngừa, chuyển sang thanh toán dựa trên giá trị, và thúc đẩy hợp tác công-tư. Bài học từ COVID-19 nhấn mạnh nhu cầu tài trợ linh hoạt, phù hợp với Việt Nam trong bối cảnh dân số già hóa.

m8s.jpg
GS C.M. Wayne chia sẻ kinh nghiệm nâng cao năng lực tài chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ ASEAN.

GS C.M. Wayne, Giám đốc nghiên cứu và phát triển Tập đoàn Simply Singapore (Simplyfi™) đã chỉ ra khoảng cách sẵn sàng tài chính của SMEs ASEAN. Đó là sự hạn chế tài chính khi hơn 60% SMEs thiếu dự báo tài chính, và dưới 30% tiếp cận được tín dụng chính thức. Về giải pháp công nghệ, Simplyfi™ tự động hóa dự báo, định giá doanh nghiệp, và kết nối nhà đầu tư, với các chương trình đào tạo như “Bingo Bootcamp”.

Ông C.M. Wayne đề xuất ba trụ cột cải cách bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng số, cải cách thể chế như hộp cát quy định và cơ chế khuyến khích như ưu đãi thuế. Lộ trình bao gồm ngắn hạn (thí điểm báo cáo nhà đầu tư), trung hạn (hài hòa quy định fintech), và dài hạn (tạo sàn giao dịch SMEs ASEAN).

(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Tài chính xanh: Triển vọng của Việt Nam và bài học từ quốc tế