Theo số liệu từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), chỉ số hoạt động logistics (chỉ số LPI) của Việt Nam đứng thứ 43/154 quốc gia và vùng lãnh thổ, thuộc nhóm 5 nước dẫn đầu khu vực ASEAN.
Phát triển dịch vụ logistics đồng bộ, toàn diện
Hiện, về hạ tầng, logistics Việt Nam gồm hạ tầng đường bộ chiếm 61-64% hàng hóa vận tải bằng đường bộ; 3.143 km mạng lưới đường sắt và 277 ga, mật độ đường sắt đạt 9,5 km/1.000 km2, đạt mức trung bình ASEAN và thế giới, xếp 58/141 về mật độ mạng lưới. Việt Nam có hơn 17.000 km đường thủy nội địa đang khai thác; 310 cảng, 6.274 bến thủy nội địa và 18 cảng có khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải trên 3.000 tấn, có 20 cảng có khả năng tiếp nhận phương tiện thủy nước ngoài.
Theo ông Trần Thanh Hải - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), với hệ thống vận tải đường biển, Việt Nam có 286 bến cảng thuộc 5 nhóm cảnh biển, chiều dài cầu cảng xấp xỉ 100 km; 2 cảng biển loại đặc biệt tiếp nhận được tàu container đến 132.000 DWT tại Lạch Huyện, tàu đến 214.000 DWT tại Cái Mép; 1.477 tàu, tổng trọng tải 11,6 triệu DWT, đứng thứ 2 ASEAN và thứ 22 trên thế giới; 32 tuyến, trong đó có 25 tuyến vận tải quốc tế và 7 tuyến vận tải nội địa. Hiện Việt Nam có 22 cảng hàng không đang khai thác. 69 trung tâm logistics có quy mô lớn và vừa, phân bổ tập trung ở một số khu công nghiệp. Về doanh nghiệp (DN) dịch vụ logistics, hiện có 46.428 DN vận tải, kho bãi; 5.000 DN cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba.
Khẳng định, logistics mở đường cho thương mại, sản xuất, ông Hải cho hay, quy mô của ngành dịch vị logistics Việt Nam thể hiện ở lượng hàng hóa vận chuyển và lưu chuyển đều tăng trưởng 2 con số trong 9 tháng đầu năm 2024 và tăng trưởng qua từng năm. Logistics thúc đẩy liên kết vùng, hiện quy mô thị trường kho Việt Nam đạt 4 triệu m2 sàn, tốc độ tăng trưởng 23%/năm giai đoạn 2020 - 2023. Các kho này đang tập trung ở vùng kinh tế trọng điểm.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Bộ Công thương Phan Thị Thắng cho rằng, ngành dịch vụ logistics Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế như chi phí dịch vụ còn cao; thiếu sự liên kết giữa các DN dịch vụ với nhau và với các DN sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu; quy mô và tiềm lực về tài chính của các DN logistics Việt Nam còn yếu, việc tiến ra thị trường nước ngoài còn chưa đáng kể; nguồn nhân lực làm dịch vụ logistics còn thiếu cả về số lượng, chất lượng và tính chuyên nghiệp. Hiện Bộ Công thương đã được Chính phủ giao xây dựng Dự thảo Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025-2035, tầm nhìn đến 2045 nhằm phát triển ngành dịch vụ logistics đồng bộ, toàn diện và tương xứng với tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn tới. Chiến lược cũng đặt ra mục tiêu đến năm 2035, tốc độ tăng trưởng ngành đạt từ 8-12%; 80% số DN logistics chuyển đổi số; chi phí logistics/GDP chiếm từ 12-15% (hiện đang là 16-18%).
Tìm giải pháp đột phá
Theo lãnh đạo Bộ Công thương, để đạt được mục tiêu đề ra, đưa logistics thành ngành dịch vụ giá trị gia tăng cao, Bộ cũng đề ra nhiều nhóm giải pháp đột phá, bao gồm: Sớm hình thành cảng trung chuyển sẽ giúp tận dụng lợi thế về địa chính trị, vừa giúp Việt Nam gia tăng nguồn hàng cho các dịch vụ logistics. Hiện chúng ta có cảng Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu là những cảng cửa ngõ, đáp ứng nguồn hàng xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam là chính. Còn với nguồn hàng từ các nước đến cảng, xử lý tại đây và di chuyển đi các nước giống như Singapore hay Hồng Kông (Trung Quốc) đã làm thì chúng ta chưa có. Kỳ vọng, tới đây cảng Cần Giờ sẽ là một cảng trung chuyển hàng hóa của Việt Nam.
Sớm xây dựng đội tàu quốc gia. Hiện chúng ta có đội tàu biển lớn, nhưng tải trọng nhỏ, số lượng chủ tàu đông, do đó, các đội tàu biển container vẫn mang tính chất phân tán, phân mảnh. Chúng ta chưa có hãng tàu lớn, nhất là các hàng tàu container. Việc xây dựng đội tàu container xứng tầm là việc cần làm. Bên cạnh đó là đội tàu bay vận tải hàng hóa, hiện nhu cầu đối với dịch vụ này đang rất cao, nhất là sau thời kỳ Covid-19. Kế đó phải xây dựng khu thương mại tự do. Trước khi xây dựng trung tâm logistics lớn, hiện đại, thông minh, tự động và xanh.
Ngoài ra, còn một số giải pháp cũng được đề cập đến, như các chính sách hỗ trợ DN, như ưu đãi thuế, vốn hay tiếp cận đất đai; thu hút đầu tư; phát triển thị trường; kiện toàn bộ máy...
Logistics của Việt Nam hiện xếp thứ 10/50 thị trường logistics mới nổi; tốc độ phát triển ngành logistics ở Việt Nam những năm gần đây đạt khoảng 14 -16%, với quy mô khoảng 40 - 42 tỉ USD/năm. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt 369,62 tỉ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2023.