Tìm giải pháp chống ngập: Hà Nội cần giải bài toán quy hoạch hạ tầng
Hai cơn bão số 10 và 11 liên tiếp trong tháng 10 đã khiến Hà Nội chìm trong biển nước. Từ những con phố trung tâm đến các khu đô thị mới, đâu đâu cũng thấy cảnh ngập. Nhưng điều khiến dư luận quan tâm hơn cả không chỉ là chuyện mưa lớn, mà là câu hỏi: Hà Nội sẽ thoát khỏi tình trạng ngập úng bằng cách nào, và bằng con đường nào để hướng tới một đô thị có khả năng thích ứng với khí hậu, quy hoạch bền vững?

Những giới hạn sau “cơn bão kép”
Bảy ngày sau “đại hồng thủy” do hoàn lưu bão số 10, Hà Nội lại hứng chịu mưa lớn kéo dài do bão số 11. Lượng mưa phổ biến 100–180 mm, có nơi vượt 200 mm như Ô Chợ Dừa 223,9 mm, Hải Bối 204,9 mm. Các tuyến phố huyết mạch như Vành đai 3, Minh Khai, Đại lộ Thăng Long, Lê Văn Lương, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công… đều chìm trong nước, nhiều nơi ngập tới nửa mét. Toàn thành phố ghi nhận hơn 120 điểm úng ngập cục bộ, giao thông tê liệt, hàng loạt trường học phải đóng cửa, cơ quan cho nhân viên làm việc tại nhà.
Vài năm gần đây, phường Tây Mỗ được biết đến là “rốn ngập” của Hà Nội. Mỗi khi mưa lớn, nhiều khu dân cư biến thành biển nước. Anh Nguyễn Bá Quân – cư dân tổ dân phố Dưới – chia sẻ: “Trước đây quanh làng là ruộng, ao hồ, giờ đô thị mọc lên dày đặc. Nhà tôi thấp nên khi mưa lớn nước ngập hơn nửa mét. Mỗi trận ngập xong là cả ngày dọn dẹp, đồ đạc hư hại, con tôi phải học online vì trường ngập hơn 10 ngày”.
Đặc biệt, Tổng Bí thư đề nghị Hà Nội trong nhiệm kỳ này xử lý dứt điểm 4 vấn đề kéo dài nhiều năm mà nhân dân mong đợi: ùn tắc giao thông, trật tự đô thị, ô nhiễm môi trường – nhất là nguồn nước và không khí – và ngập úng ở nội đô, vùng ven; coi đây là thước đo năng lực lãnh đạo và trách nhiệm phục vụ nhân dân.
Không chỉ Tây Mỗ, ở phường Xuân Phương, hàng trăm hộ dân tổ dân phố số 2, Miêu Nha cũng chịu cảnh ngập sâu. Bà Nguyễn Thị Mai cho biết: “Nước tràn vào nhà toàn nước bẩn, đồ điện tử hỏng, bể nước nhiễm bùn. Cứ mưa là lo”.
Theo ông Nguyễn Quốc Nam, Chủ tịch UBND phường Xuân Phương, nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ngập úng kéo dài trong hơn 1 tháng qua là lượng mưa quá lớn, nước sông Nhuệ dâng cao, khiến trạm bơm cầu Ngà dù hoạt động hết công suất cũng không thể tiêu thoát ra ngoài. Phường đã huy động lực lượng vớt rác, khơi thông miệng cống, song đây chỉ là giải pháp tình thế. Về lâu dài, lãnh đạo phường Xuân Phương kiến nghị, thành phố cần có những giải pháp căn cơ như đầu tư kinh phí cải tạo, nâng cấp hệ thống đê sông Nhuệ, cải tạo trạm bơm cầu Ngà để đáp ứng yêu cầu tiêu thoát nước khi có mưa bão.

Hai trận “bão kép” vừa qua như tấm gương phản chiếu rõ nét năng lực chịu tải của hạ tầng Thủ đô. Khi quy hoạch không theo kịp tốc độ đô thị hóa, mọi cơn mưa đều trở thành phép thử cho sự chuẩn bị của chính quyền và năng lực ứng phó của đô thị. Hạ tầng yếu, quy hoạch thiếu đồng bộ, cộng với việc san lấp hồ, kênh, khiến những khu đô thị mới – vốn được kỳ vọng hiện đại – lại trở thành “điểm nóng” ngập úng.
Theo Sở Xây dựng Hà Nội, hệ thống thoát nước của Thủ đô được thiết kế với công suất 310 mm/2 ngày, nhưng thực tế mưa vượt xa mức này khiến hệ thống quá tải. Trong khi đó mực nước các sông ngoại thành Hà Nội dâng cao khiến việc tiêu thoát nước tự chảy không thực hiện được cũng ảnh hưởng đến tiêu thoát nước đô thị.
Theo quy hoạch thoát nước Thủ đô, Hà Nội chia thành 3 vùng chính: tả Đáy, hữu Đáy và bắc Hà Nội. Trong đó, vùng tả Đáy với diện tích hơn 47.000ha mới chỉ có lưu vực sông Tô Lịch được cải tạo hệ thống thoát nước và cơ bản đáp ứng yêu cầu thoát nước khi lượng mưa 310 mm/3 ngày. Do đó, khi lượng mưa lớn vượt mức 310mm/2 ngày, hoặc 70mm/giờ, tình trạng ngập úng cục bộ vẫn xảy ra.

Ông Trương Xuân Cừ, Đại biểu Quốc hội TP Hà Nội cho rằng, về lâu dài, Hà Nội cần nghiên cứu các giải pháp mang tính đầu tư căn cơ, hiện đại nhằm ứng phó hiệu quả với tình trạng ngập úng đô thị. Một trong những hướng đi có thể tham khảo là mô hình hồ ngầm, bể ngầm chứa nước mưa như Nhật Bản, Singapore đang áp dụng. Ở Nhật Bản, những hồ, hay bể chứa được đào rất sâu và rộng, to như một sân vận động. Khi mưa xuống, các hồ hay các bể là nơi chứa nước. Sau đó, nước từ các hồ này được bơm ra ngoài và chỉ duy trì một lượng nước nhất định để trữ cho các trận mưa tiếp theo. Tương tự, Singapore cũng xây dựng hệ thống bể chứa nước mưa quy mô lớn, và lượng nước này có thể được tái sử dụng cho sinh hoạt. Tại đây, tất cả nguồn nước, kể cả nước thải, đều được xử lý đạt chuẩn trước khi xả ra môi trường.
Đáng chú ý, trong quy hoạch thoát nước Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, có 3 dự án tiêu thoát nước gồm trạm bơm tiêu nước tây Hà Nội (Trạm bơm Đông La-Yên Nghĩa), trạm bơm Đào Nguyên và hệ thống cống thoát nước dọc đại lộ Thăng Long. Tuy nhiên đến nay, mới chỉ có trạm bơm Yên Nghĩa công suất 120m3/s đi vào hoạt động nhưng hệ thống kênh dẫn nước La Khê chưa hoàn thành do vướng giải phóng mặt bằng. Điều này khiến việc thu gom nước về trạm bơm bị hạn chế nghiêm trọng. Trong các trận mưa lớn vừa qua nhà máy chỉ hoạt động được từ 50 đến 70% công suất.
Ngoài ra, dự án “Thoát nước nhằm cải thiện môi trường Hà Nội – giai đoạn II” sử dụng vốn ODA Nhật Bản cũng mới hoàn thành phần phục vụ lưu vực sông Tô Lịch, đạt khoảng 24,7% tổng công trình quy hoạch. Trong khi đó, theo quy hoạch, toàn thành phố cần 45 trạm bơm thoát nước, nhưng đến nay mới có 11 công trình được xây dựng, tổng công suất chỉ đạt 20% so với yêu cầu.
Quy hoạch và những điểm nghẽn
Từ góc nhìn chuyên gia, GS. TS Đào Xuân Học - Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam cho rằng, về nguyên tắc, một đô thị được thiết kế hệ thống thoát nước chịu tải được tính theo lượng mưa trong 1h. Ngay cả mưa có lớn gấp đôi so với công suất thiết kế tiêu thoát nước 1h thì khi tạnh chỉ cần 2h là tiêu hết, gấp 3 thì cần 3h để tiêu thoát…nhưng ở đây Hà Nội phải mất 2-3 ngày mới tiêu hết, chứng tỏ hệ thống tiêu nước của chúng ta đang có vấn đề nên mới làm ngập diện rộng và ngập dài ngày.
“Cần phân biệt rõ giữa thoát nước và tiêu nước, thoát nước là việc thu gom và dẫn nước ra khỏi khu dân cư, còn tiêu nước là việc dẫn nước từ đô thị ra các sông lớn. Cả hai khâu đều rất quan trọng trong quá trình chống ngập, nếu thoát được mà không tiêu được thì mọi nỗ lực đều không đạt hiệu quả, nhưng rõ ràng khâu tiêu nước của Hà Nội đang gặp vấn đề”- ông Học phân tích.
Ông Nguyễn Duy Du, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi và Phòng, chống thiên tai - Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội cũng thẳng thắn thừa nhận, công tác thoát nước đô thị và giải quyết úng ngập vẫn còn nhiều bất cập khi chưa đáp ứng được các mục tiêu quy hoạch phát triển hạ tầng thoát nước và tiến độ thực hiện. Trong khi đó, các dự án đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước và xử lý nước thải chủ yếu mang tính kỹ thuật, công nghệ cao, cần nhu cầu kinh phí lớn, hiện chủ yếu sử dụng vốn vay ODA (Dự án thoát nước cải thiện môi trường Hà Nội -PV) nên thời gian thực hiện dài.
“Những khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng cũng khiến hầu hết các dự án đều chậm so với tiến độ dự kiến. Mặt khác, do nguồn ngân sách thành phố hạn hẹp nên kế hoạch tài chính thường chưa được bố trí phù hợp cho kế hoạch đầu tư phát triển hệ thống từng giai đoạn” - ông Du cho biết.
Đi sâu phân tích, ông Du cho hay, theo quy hoạch thoát nước Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 725/QĐ-TTg ngày 10/5/2013 (Quy hoạch) lượng mưa được tính toán là 310mm/2 ngày.

Hiện nay, dự án thoát nước nhằm cải thiện môi trường Hà Nội- giai đoạn I và giai đoạn II mặc dù đã hoàn thành và đưa vào sử dụng phục vụ thoát nước cho lưu vực sông Tô Lịch mới chỉ đạt 24,7% công trình cần thực hiện theo Quy hoạch.
Ngoài ra theo Quy hoạch, hệ thống thoát nước mưa được tiêu thoát nước qua 45 trạm bơm. Đến nay, thành phố đã có 11 công trình trạm bơm đã được đầu tư xây dựng và đi vào hoạt động gồm 5 trạm bơm thoát nước đô thị là Yên Sở, Cổ Nhuế, Đồng Bông 1, Đồng Bông 2, Bắc Thăng Long- Vân Trì. Tổng công suất các công trình đầu mối thoát nước thuộc Vùng Tả Đáy yêu cầu là 811,5m3/s. Mặc dù đã có nhiều giải pháp nhưng đến nay, các công trình đầu mối thoát nước đô thị mới đạt tổng công suất 164,5m3/s bằng khoảng 20% so với Quy hoạch.
“Hà Nội đang trong quá trình triển khai đề án chống ngập của Sở Xây dựng Hà Nội và cũng đang đầu tư một số công trình cấp bách. Việc áp dụng giải pháp chống ngập của nước ngoài cũng rất tốt nhưng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kỹ thuật, địa hình và kinh tế. Quan trọng là cần nghiên cứu áp dụng mô hình để vừa giải quyết được úng ngập mà vẫn giải quyết được mục tiêu kinh tế, đầu tư và quản lý, vận hành sau này” - ông Du nói.
Rõ ràng, một thành phố gần 10 triệu dân không thể vận hành trên hạ tầng được thiết kế cách đây hàng chục năm. Mỗi dự án thoát nước chậm ngày nào là thêm một lần người dân sống trong cảnh “nước dâng giữa lòng đô thị”. Đây là lúc cần tư duy quản trị mới – coi đầu tư thoát nước không phải là chi phí, mà là nền tảng cho an toàn và phát triển.

TS Phan Lê Bình, Chuyên gia JICA, Trưởng đại diện văn phòng tư vấn OCG Nhật Bản tại Việt Nam, cho rằng, một trong những nguyên nhân khiến tình trạng ngập úng tại Hà Nội gia tăng là do hiện nay phần lớn vỉa hè, mặt đường đã bị bê tông hóa, khiến nước mưa không thể thấm xuống đất mà dồn hết ra hệ thống rãnh, cống thoát nước. Việc sử dụng vật liệu như gạch, đá lỗ thấm nước là giải pháp khả thi và hiệu quả. Loại vật liệu này giúp giữ được nước trên bề mặt và thấm dần xuống đất, vừa giảm áp lực cho hệ thống thoát nước đô thị, vừa góp phần hạn chế ngập úng cục bộ sau mưa lớn.
Từ chống ngập đến chiến lược đô thị bền vững
Không thể phủ nhận, Hà Nội đã và đang triển khai hàng loạt công trình chống ngập mang tính cấp bách. Hệ thống hồ điều hòa Yên Sở, Linh Đàm, Công viên Hòa Bình, Thanh Xuân… đang phát huy vai trò điều tiết nước. Sở Xây dựng cũng phối hợp các địa phương nạo vét sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, sông Kim Ngưu – những “mạch dẫn” quan trọng trong lưu vực tiêu nước tả Đáy.
Công ty Thoát nước Hà Nội đã bố trí hàng trăm máy bơm dã chiến ở các điểm thường xuyên úng ngập như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Xiển, Đại lộ Thăng Long để kịp thời vận hành khi có mưa lớn.
Tuy vậy, theo các chuyên gia, những giải pháp tình thế vẫn chỉ giúp giảm ngập cục bộ, chưa thể giải quyết tận gốc. GS.TS Đào Xuân Học đề xuất: “Hà Nội vốn có mạng lưới sông, hồ dày đặc. Nếu biết tận dụng, nạo vét, hạ thấp đáy sông, kết nối hợp lý với trạm bơm, sẽ tạo ra hệ thống tiêu nước tự nhiên hiệu quả. Đây là giải pháp tiết kiệm và bền vững hơn so với việc chạy theo công trình tốn kém”.
TS Phan Lê Bình – Chuyên gia JICA, Trưởng đại diện OCG Nhật Bản – nhìn nhận: “Địa hình Hà Nội như một cái chảo. Muốn hết ngập thì phải bơm nước từ trong ra ngoài. Nhưng quan trọng hơn là phải khôi phục khả năng thấm của đất. Không thể bê tông hóa tất cả”. Ông gợi ý: “Nên dùng vật liệu thấm nước cho vỉa hè, sân trường, kết hợp hồ điều hòa, bể chứa nước mưa. Nếu hàng trăm công trình nhỏ cùng góp phần, thành phố sẽ bớt ngập đáng kể”.
Trao đổi với Báo Đại đoàn kết, Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Mạnh Quyền cho biết, hiện nay Hà Nội đã cơ bản hoàn thành quy hoạch tổng thể hệ thống đê điều và thủy lợi, sắp tới sẽ mời thêm đơn vị tư vấn nước ngoài để hoàn thiện quy hoạch, bảo đảm hệ thống vừa vững chắc trước mắt, vừa bền vững lâu dài. Thành phố sẽ đưa dự án này vào kế hoạch đầu tư công trung hạn 2026–2030, với mục tiêu “không chỉ chống ngập, mà kiến tạo đô thị an toàn, thích ứng với khí hậu”.
Liên quan đến việc Hà Nội sẽ mời thêm đơn vị tư vấn nước ngoài để hoàn thiện quy hoạch, bảo đảm hệ thống vừa vững chắc trước mắt, vừa bền vững lâu dài trong chống ngập, TS Nguyễn Viết Chức, Phó Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Văn hoá – Xã hội, UBTƯ MTTQ Việt Nam cho rằng, các đơn vị tư vấn nước ngoài họ có công nghệ, có kinh nghiệm. Nhưng có lẽ Hà Nội có kinh nghiệm hơn cả bởi là người sống trong cuộc bao nhiêu năm nay.

Ông Nguyễn Ngọc Sơn, Đại biểu Quốc hội, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, cho rằng, nguyên nhân chính của ngập lụt là do quy hoạch đô thị chưa đồng bộ, quy hoạch cấp thoát nước và lưu vực sông chưa được kết nối hợp lý, dẫn đến tình trạng nước mưa không có đường thoát tự nhiên. Hệ thống cống, rãnh, mương và các điểm đấu nối không đồng bộ cũng góp phần khiến tình trạng úng ngập ngày càng nghiêm trọng. Vấn đề thoát nước của Hà Nội hiện nay chủ yếu bắt nguồn từ hạ tầng và quy hoạch, còn việc ứng dụng khoa học – công nghệ chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Trong thời gian tới, giải pháp căn bản là phải xử lý triệt để các bất cập về hạ tầng đô thị, trước khi tính đến việc ứng dụng các công nghệ bơm, hút hay tiêu thoát nước hiện đại.
Theo ông Chức, Hà Nội xác định nguyên nhân ngập có rất nhiều, ví dụ lấp hồ ao, sông, rạch. Cho nên chúng ta phải xem lại chỗ nào lấp rồi, xây nhà rồi thì thôi, còn chỗ nào đang làm kênh rạch bê tông hóa, cứng, làm kênh rạch bé đi thì phải xem lại. “Phải có cách để giữ lại nước mưa để xử lý và sử dụng, giúp tiết kiệm nguồn nước; có hệ thống bể chứa ngầm dưới lòng đất để sử dụng thau rửa sông, kênh, rạch, tưới tiêu nông nghiệp” – ông Chức nói.
Ông Chức cũng đề xuất việc nạo vét bùn ở các hồ lớn là rất đúng và cần thiết bởi qua nhiều năm bồi đắp, làm lớp bùn dày lên, hồ nông đi, khả năng chứa nước của hồ kém đi. Tuy nhiên khó khăn là không có chỗ đổ bùn. Do đó việc này Nhà nước có thể khoán cho 1 đơn vị tư nhân xử lý, và là phải có chỗ đổ hợp lý, và cần được xỷ lý rồi sử dụng, bởi bùn qua xử lý có thể dùng làm phân bón.
“Tất cả những việc đó đòi hỏi một cách nhìn tổng thể. Thuê tư vấn ở đâu cũng được, thuê nước ngoài, hoặc thuê trong nước nhưng phải đủ lực, tức là phải có trí tuệ, hiểu biết, và phải ký hợp đồng cam kết rõ ràng”- ông Nguyễn Viết Chức khẳng định.