Năm 1798, vaccine đậu mùa đầu tiên được tìm ra, kể từ đó, hàng trăm loại vaccine đã được phát triển trên toàn thế giới.
Sự xuất hiện của vaccine trong hơn 200 năm qua đã bảo vệ nhân loại chống lại hơn 20 căn bệnh nguy hiểm đe dọa đến tính mạng, giúp ngăn chặn từ 2 đến 3 triệu ca tử vong mỗi năm.
Lợi ích của việc tiêm chủng là không phải bàn cãi, vaccine càng được mở rộng đến thanh thiếu niên và người lớn, bảo vệ con người chống lại những bệnh nguy hiểm như cúm, viêm màng não và các loại ung thư (như ung thư cổ tử cung và ung thư gan), thường xuất hiện ở tuổi trưởng thành.
Cùng với việc phòng chống dịch bệnh, vaccine cũng giúp hạn chế sự lan rộng của tình trạng kháng kháng sinh bởi lẽ, khi được tiêm vaccine, người được tiêm sẽ giảm được nguy cơ nhiễm bệnh, do đó giảm nhu cầu sử dụng thuốc kháng sinh, điều này góp phần hạn chế tình trạng kháng kháng sinh.
Đặc biệt, những năm vừa qua, khi cả thế giới phải đối mặt với đại dịch toàn cầu Covid-19, tầm quan trọng của vaccine càng được khẳng định hơn nữa. Bằng chứng đanh thép nhất là sau khi các chiến dịch tiêm chủng vaccine phòng Covid-19 được thực hiện rộng rãi ở các quốc gia, tỷ lệ bệnh nặng và tử vong đã giảm đáng kể.
Song song cùng công tác phổ cập, bao phủ các mũi tiêm chủng để giúp trẻ em cũng như người lớn chống lại các dịch bệnh nguy hiểm, việc nghiên cứu, phát triển vaccine đều được các nước trên phạm vi toàn cầu xem là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Việt Nam cũng không là ngoại lệ so với thế giới. Từ những năm 1960, Việt Nam đã bắt đầu sản xuất được vaccine đầu tiên - vaccine phòng bại liệt mà khởi nguồn là GS Hoàng Thủy Nguyên - nguyên Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương - đến nay sự nghiệp sản xuất vaccine của nước ta đã có bề dày lịch sử hơn nửa thế kỷ.
Lần lượt, Việt Nam dần chủ động sản xuất được nhiều loại vaccine như: Vaccine viêm gan B từ huyết tương người, vaccine viêm não Nhật Bản, vaccine bạch hầu, ho gà, uốn ván… Tới năm 2015, mọi nỗ lực của các thế hệ y – bác sĩ trong nghiên cứu vaccine đã được khẳng định một cách xứng đáng. Trong năm này, Bộ Y tế đã đón nhận Giấy chứng nhận Hệ thống quản lý quốc gia về vaccine Việt Nam (NRA) đạt chuẩn quốc tế, được trao bởi Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Với cơ hội này, Việt Nam đã trở thành một trong 39 quốc gia trên thế giới được công nhận NRA và có điều kiện xuất khẩu vaccine.
Cần biết, ở thời điểm đó, rất nhiều nước trên thế giới đều chưa dám nộp hồ sơ để WHO đánh giá và cấp Giấy chứng nhận nói trên, bởi tiêu chí kiểm nghiệm rất khắt khe. Có những nước phải mất tới 19 - 20 năm mới hoàn thiện đánh giá này. Ngay các quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc cũng phải đến lần đánh giá thứ 2 mới đạt tiêu chuẩn này. Trong khi đó, thời gian từ lúc Bộ Y tế quyết định khởi động, tăng tốc triển khai đến khi nhận được NRA là 18 tháng.
GS.TS Nguyễn Thị Kim Tiến - nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế lý giải: “Việc Việt Nam được WHO công nhận hệ thống quản lý về vaccine có nghĩa chúng ta đã sánh ngang các nước phát triển trên thế giới cũng đạt tiêu chuẩn này. Ví dụ trong kiểm nghiệm vaccine, từ chỗ phải gửi mẫu ra nước ngoài để đánh giá thì nay ta có thể nhận mẫu vaccine của các nước trên thế giới để kiểm nghiệm và kết quả kiểm nghiệm này được WHO công nhận. Với giấy chứng nhận này, Việt Nam có đủ khả năng giám sát, đánh giá chất lượng vaccine một cách độc lập. Khi đó, vaccine của chúng ta làm ra có thể xuất khẩu ra thế giới và các nước công nghệ cao có thể yên tâm đầu tư vào đây cùng hợp tác sản xuất vaccine, cạnh tranh lành mạnh”.
Cũng chính từ thời điểm này, mục tiêu xuất khẩu vaccine, kinh tế vaccine và sự phát triển vượt bậc của ngành công nghiệp vaccine ở nước ta đã trở thành thiết thực.
Ngay sau đó, vào năm 2016, Việt Nam sản xuất được vaccine phối hợp phòng sởi - rubella (MR) chất lượng cao ứng dụng công nghệ Nhật Bản. Tại thời điểm này, Việt Nam là một trong 25 quốc gia sản xuất được vaccine trên thế giới và là nước thứ tư tại châu Á có thể sản xuất vaccine MR sau Nhật Bản, Ấn Độ và Trung Quốc. Đây là vaccine đầu tiên của Việt Nam đã hoàn thiện quy trình nghiên cứu và đạt hiệu quả cao trong thử nghiệm tiền lâm sàng.
Năm 2018-2019, chúng ta sản xuất thành công vaccine cúm mùa 3 trong 1 gồm cúm A/H1N1/09, A/H3N2, cúm B và vaccine cúm tiền đại dịch A/H5N1.
Cho tới hiện tại, “quả ngọt” đã đến nhờ những nỗ lực không ngừng nghỉ sau hơn nửa thế kỷ. Việt Nam đã tự chủ sản xuất được 11 trên tổng số 12 loại vaccine có trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng quốc gia. Không những thế, vaccine “made in Việt Nam” đã chính thức được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới.
GS.TS Nguyễn Đăng Hiền - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu sản xuất và sinh phẩm y tế (Polyvac), Bộ Y tế thông tin, trong năm 2023, Polyvac đã xuất khẩu 1 triệu liều vaccine sởi đi Ấn Độ. Đồng thời, cả Iran và Bangladesh cũng đã có nhiều cuộc làm việc để có thể sớm ký kết hợp đồng xuất khẩu vaccine rota do Polyvac sản xuất đi những nước này.
Cũng trong năm 2023, vaccine dịch tả lợn châu Phi – loại vaccine phòng dịch tả lợn châu Phi mà Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới nghiên cứu ra đã chính thức được xuất khẩu đi 5 nước: Philippines, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Myanmar với khoảng 2 triệu liều.
Nhiều chuyên gia dự đoán, với năng lực của Việt Nam về hệ thống quản lý chất lượng vaccine, đội ngũ nhà khoa học cùng với chiến lược đầu tư, phát triển phù hợp, trong tương lai không xa, Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia sản xuất vaccine nhiều nhất trên thế giới.
PGS.TS Dương Thị Hồng - Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương:
Nhiều dịch bệnh được loại trừ nhờ tiêm chủng vaccine
Việc nghiên cứu ra vaccine phòng bệnh cho trẻ em và cả người lớn là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của y học. Nhờ có vaccine mà nhiều dịch bệnh đã được khống chế, loại trừ, đặc biệt là các bệnh cúm, đậu mùa, uốn ván, bại liệt… Đặc biệt, với trẻ em, người già, người mắc bệnh mạn tính có hệ miễn dịch suy yếu, nếu không được tiêm ngừa vaccine phòng bệnh sẽ dễ mắc bệnh, để lại di chứng nặng nề, thậm chí tử vong.
Tại Việt Nam, với sự phát triển vượt bậc của nghiên cứu, chế tạo vaccine, trên 90% trẻ em dưới 1 tuổi đã được sử dụng các vaccine trong tiêm chủng mở rộng hàng năm do chính nước ta sản xuất. Kết quả là một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trong chương trình tiêm chủng mở rộng đã giảm rõ rệt, từ hàng chục đến hàng trăm lần. Một số bệnh như bệnh bại liệt đã được thanh toán từ năm 2000, bệnh uốn ván sơ sinh đã được loại trừ từ năm 2005.
Nhiều nước khác có điều kiện tương tự Việt Nam nhưng một số bệnh chưa có vaccine miễn phí cho trẻ như: vaccine phòng bệnh viêm phổi/ viêm màng não mủ do Hib, Viêm não Nhật Bản; tả; thương hàn..
Hàng năm đã có khoảng 1,5 - 1,6 triệu trẻ em Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước được sử dụng vaccine miễn phí, đảm bảo an toàn trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng. Thế hệ tương lai của đất nước đã được phòng, chống các căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.