Báo Đại đoàn kết Văn hóa

Xã hội hóa công tác bảo tồn di tích: Kết quả lắm, hạn chế nhiều

Báo Đại đoàn kết Tăng kích thước chữ

Xã hội hóa công tác bảo tồn di tích: Kết quả lắm, hạn chế nhiều

Báo Đại đoàn kết trên Google News

Bên cạnh những kết quả tích cực, việc thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác bảo tồn di tích cũng tồn tại nhiều bất cập. Tình trạng lạm dụng, hoặc lợi dụng xã hội hóa làm biến đổi hiện trạng di tích tiếp tục gây sự bức xúc của dư luận xã hội. Để làm rõ hơn thực trạng và những hệ lụy từ công tác này, GS. Ngô Đức Thịnh - Ủy viên Hội đồng Di sản Quốc gia, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam đã chia sẻ với Báo Đại Đoàn Kết.

Xã hội hóa công tác bảo tồn di tích: Kết quả lắm, hạn chế nhiều

Kết quả song hành với bất cập

Hiện nay, nước ta có hơn 3.000 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, hơn 5.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh/thành phố. Trong khi đặc thù của di tích là có niên đại xây dựng cách đây hàng trăm năm, trải qua thời gian, nhiều di tích rơi vào tình trạng hư hỏng, xuống cấp và cần kinh phí để tu bổ. Tuy nhiên, việc bố trí vốn tu bổ chỉ ưu tiên đối với các di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia. Điều này đồng nghĩa với việc hàng nghìn di tích đã xếp hạng cấp tỉnh và hàng chục nghìn di tích khác chưa được xếp hàng vẫn trong tình trạng “đói” vốn để trùng tu.

Do đó, chủ trương xã hội hóa công tác tu bổ di tích ra đời góp phần khắc phục những hạn chế nói trên. Thực hiện chủ trương này, thời gian qua, nhiều hoạt động được triển khai, huy động nguồn lực và nhận được sự hưởng ứng tích cực của các tầng lớp nhân dân, thể hiện rõ nhất ở việc tu bổ di tích, khôi phục các hoạt động văn hóa, lễ hội. Nguồn đóng góp từ xã hội hóa lên tới hàng trăm tỷ đồng, đó là chưa kể đóng góp bằng hiện vật.

Ước tính, mỗi năm có khoảng trên 100 di tích được tu bổ từ nguồn vốn xã hội hóa với mức đầu tư trung bình 2 - 3 tỷ đồng cho một di tích. Có những di tích tiêu tốn cả chục tỷ đồng để tu bổ và được cộng đồng đóng góp 100% kinh phí. Do kinh phí tu bổ di tích rất tốn kém, trong khi nguồn vốn ngân sách hạn chế nên đây được coi là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa thiết thực trong bảo tồn di tích.

Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, phải thừa nhận rằng: công tác xã hội hóa hoạt động bảo tồn di tích cũng bộc lộ nhiều hạn chế, chưa thể hiện được vai trò định hướng, quản lý của Nhà nước. Nhận thức của xã hội về di sản văn hóa chưa thật sâu sắc và toàn diện, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao, hoạt động tham gia tu bổ di tích còn mang tính tự phát, không phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng bảo vệ di sản văn hóa ở các địa phương.

Nhận thức yếu kém về di sản văn hóa cũng dẫn đến tình trạng vi phạm trong hoạt động bảo tồn hoặc đầu tư không đúng trọng điểm, làm sai lệch các yếu tố gốc của di tích. Trong khi đó, cơ quan chức năng và chính quyền địa phương buông lỏng quản lý, hạn chế về trình độ, nhận thức dẫn đến nhiều bất cập, thiếu sót trong triển khai công tác xã hội hóa...

Xã hội hóa công tác bảo tồn di tích: Kết quả lắm, hạn chế nhiều - 1

Bia “chui” ở đền Trần (Thái Bình).

Mặt trái của xã hội hóa

Những mặt trái của phương thức xã hội hóa được thể hiện rõ nhất qua các tác động tiêu cực tới di tích thời gian qua như: làm thay đổi hiện trạng di tích sau khi tu bổ, trùng tu và tiếp nhận những hiện vật mới, không phù hợp với di tích.

Về tình trạng làm thay đổi di tích sau trùng tu, có thể lý giải trên 2 góc độ. Thứ nhất, do ban quản lý di tích dễ dàng chấp thuận phương án trùng tu theo yêu cầu để nhận được tiền tài trợ. Thứ hai, đội ngũ tham gia tu bổ không có kiến thức về trùng tu. Đáng báo động khi hiện nay phần lớn việc trùng tu các di tích ở nước ta vẫn do các đơn vị xây dựng dân dụng thực hiện. Thiếu kiến thức về di sản, không chấp hành các quy định về trùng tu di tích, dẫn đến chất lượng di tích sau trùng tu không đảm bảo, gây nhiều bức xúc trong xã hội.

Một biểu hiện mặt trái khác của phương thức xã hội hóa, đó là tình trạng tiếp nhận các hiện vật được hiến tặng không phù hợp, làm sai lệch, biến tướng di tích. Điển hình là trường hợp tiếp nhận hòn đá lạ ở đền Hùng (Phú Thọ); hàng loạt các linh vật không phù hợp ở đình, chùa; hay gần đây nhất là sự việc ban quản lý khu di tích Đền Trần (Thái Bình) đã tự ý tiếp nhận một số bia đá có thiết kế không hợp lý, nội dung chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt… Hay mới đây là hàng loạt di tích xuống cấp nghiêm trọng ở Ba Vì (Hà Nội) như di tích kiến trúc Pháp trong Vườn quốc gia Ba Vì, đình Quang Húc, đình Cam Đà, chùa Phúc Lâm.

Thời gian qua, câu chuyện làm thế nào để tiếp nhận và quản lý nguồn công đức tại các di tích một cách hiệu quả đã được đặt ra, song vẫn chưa có lời đáp. Bởi thế, liên tục từ đầu năm tới nay xuất hiện nhiều trường hợp các vật phẩm không phù hợp vẫn len lỏi, tồn tại làm phá vỡ không gian di tích. Để xảy ra những hệ quả như vừa qua, trách nhiệm của ban quản lý di tích, chính quyền địa phương là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu văn hóa, những người có lòng hảo tâm, nhưng thiếu hiểu biết về di sản cũng không thể thờ ơ, chối bỏ trách nhiệm.

Trong khi kinh nghiệm trùng tu, tôn tạo di tích ở nhiều nước trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc cho thấy, họ nghiên cứu tư liệu rất kỹ. Việc phục dựng, trùng tu đối với di tích phải tuyệt đối tuân thủ theo quy định của pháp luật. Dù có sẵn tư liệu, nhưng nếu việc trùng tu không phù hợp với quy định của pháp luật, việc trùng tu cũng không thể thực hiện. Đây cần được coi là bài học quý báu cho công tác bảo tồn, trùng tu ở Việt Nam.

Để tránh xảy ra những sự việc đáng tiếc như vừa qua, ngoài việc đẩy mạnh công tác giáo dục về di sản cho mọi tầng lớp nhân dân, cơ quan chức năng cần quán triệt và thực hiện nghiêm những quy định của Luật Di sản, đặc biệt là Thông tư của Bộ VHTT&DL quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích.

Minh Sơn  (ghi)