Báo Đại Đoàn Kết Văn hóa

Xây dựng bản đồ số và bộ chỉ tiêu thống kê: Nền tảng chiến lược cho phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Xây dựng bản đồ số và bộ chỉ tiêu thống kê: Nền tảng chiến lược cho phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News

Trong những năm gần đây, công nghiệp văn hóa được xác định là một trong những trụ cột quan trọng của tăng trưởng kinh tế sáng tạo tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự thiếu hụt dữ liệu chuẩn hóa, hệ thống thống kê chưa đồng bộ và công cụ quản trị số còn hạn chế đang khiến việc hoạch định chính sách, đánh giá tiềm năng và kết nối thị trường gặp nhiều khó khăn.

Trước thực tế đó, việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, bản đồ số và Bộ chỉ tiêu thống kê về các ngành công nghiệp văn hóa được xem là bước đi chiến lược nhằm hình thành “bản đồ năng lực” của ngành, phục vụ cho quản lý, đầu tư và phát triển bền vững. Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa, tác động và những yêu cầu đặt ra đối với đề án này ở góc nhìn chuyên môn, phóng viên báo Đại đoàn kết đã có cuộc trao đổi với TS.KTS Nguyễn Thu Hạnh – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Công nghiệp Văn hóa Việt Nam (S-DCI).

PV: Thưa bà, việc xây dựng đề án cơ sở dữ liệu, lập bản đồ số về các ngành công nghiệp văn hóa và Bộ chỉ tiêu thống kê về các ngành công nghiệp văn hóa cần thiết ra sao trong bối cảnh hiện tại?

TS.KTS Nguyễn Thu Hạnh: Bản đồ số (digital mapping) ngành công nghiệp văn hóa là quá trình thu thập chuẩn hoá dữ liệu không gian và phi không gian về các thành tố của ngành văn hóa (doanh nghiệp, sản phẩm, cơ sở di sản, cơ sở sáng tạo, sự kiện, chuỗi cung ứng, hệ sinh thái sáng tạo…) lên nền tảng số để: hiển thị vị trí địa lý (GIS) và mối liên kết không gian; liên kết dữ liệu hành chính, kinh tế, xã hội (doanh thu, số lao động, loại hình hoạt động, tiêu chí chất lượng, ngày đăng ký, quyền sở hữu trí tuệ…); cho phép truy vấn, phân tích (analytics), báo cáo và cập nhật theo thời gian thực hoặc theo chu kỳ.

 Bản đồ số ngành công nghiệp văn hóa là nền tảng quan trọng để phân tích và hoạch định chính sách, xúc tiến đầu tư, phát triển sản phẩm và quản trị rủi ro. Rất cần thiết và cần sớm được ban hành để phục vụ cho việc xây dựng chiến lược ngành công nghiệp văn hóa giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn 2035; Việc chậm trễ sẽ làm mất cơ hội đo đếm chính xác, bỏ lỡ các doanh nghiệp nhỏ, và làm giảm hiệu quả phối hợp liên ngành…

TS.KTS. Nguyễn Thu Hạnh – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Công nghiệp Văn hóa Việt Nam (S-DCI). Ảnh NVCC.
TS.KTS. Nguyễn Thu Hạnh – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Công nghiệp Văn hóa Việt Nam (S-DCI). Ảnh NVCC.

 Vậy Bộ chỉ tiêu thống kê về các ngành công nghiệp văn hóa sẽ gồm những gì, và có tác động như thế nào đến sự phát triển của lĩnh vực này?

TS.KTS Nguyễn Thu Hạnh: Các chỉ số này bao gồm chỉ số quy mô và kinh tế; chỉ số việc làm & lao động; chỉ số đổi mới & năng lực sáng tạo; chỉ số hạ tầng & kỹ thuật số; chỉ số chất lượng & tiếp cận; chỉ số tác động liên ngành…

Tác động của các chỉ số trên đến phát triển công nghiệp văn hóa là tăng hiệu quả quản lý, thúc đẩy kinh tế sáng tạo: thống kê chính xác giúp đo được quy mô, lao động, đóng góp GDP, xuất khẩu, thu hút đầu tư, tạo việc làm và liên kết 12 ngành nghề trong lĩnh vực công nghiệp văn hoá; Hỗ trợ chuyển đổi số & đổi mới (AI/Big Data): nền tảng dữ liệu chuẩn là điều kiện để ứng dụng phân tích nâng cao, dự báo, và thiết kế chương trình hỗ trợ doanh nghiệp văn hoá.  

Mặt khác, bản đồ số và bộ chỉ tiêu thống kê các ngành công nghiệp văn hóa hoàn thành sớm sẽ giúp thu thập dữ liệu đồng bộ trước khi mất dấu các doanh nghiệp nhỏ và sáng kiến địa phương (các startup văn hóa dễ biến động, đảm bảo tính kịp thời cho các chính sách ( hỗ trợ doanh nghiệp, xúc tiến xuất khẩu…), tránh “lệch” số liệu khi các quyết định đầu tư chiến lược đang được soạn thảo; tạo nền tảng liên kết dữ liệu liên ngành theo xu hướng quốc tế.

Theo bà, việc xây dựng bản đồ số và Bộ chỉ tiêu này cần đảm bảo những nguyên tắc, tiêu chí nào để đạt hiệu quả cao và tính bền vững?

TS.KTS. Nguyễn Thu Hạnh: Hiện nay, dữ liệu về công nghiệp văn hóa của chúng ta vẫn phân tán, thiếu chuẩn và khó so sánh. Các địa phương, cơ quan quản lý lưu trữ thông tin theo nhiều hệ khác nhau, chưa có khung chuẩn thống nhất. Điều này làm yếu khả năng ra quyết sách chiến lược.

Vì vậy việc lập bản đồ số về các ngành công nghiệp văn hóa và Bộ chỉ tiêu thống kê cần đảm bảo những nguyên tắc và tiêu chí sau: Chuẩn hóa & tương thích quốc tế theo khung UNESCO FCS (phân loại rõ ràng các ngành nghề của công nghiệp văn hoá để so sánh và hội nhập quốc tế); Liên kết dữ liệu & tính liên ngành giữa văn hoá – du lịch – giáo dục – thương mại (thiết kế theo mô-đun để kết nối với dữ liệu du lịch, giáo dục, thương mại, thuế, bảo tàng); ứng dụng GIS & metadata đầy đủ đảm bảo truy xuất nguồn gốc dữ liệu (mọi đối tượng nên có tọa độ, thuộc tính mô tả, nguồn, thời gian cập nhật); Bảo mật và quyền riêng tư phân quyền truy cập rõ ràng (tuân thủ luật dữ liệu cá nhân, phân quyền truy cập; công bố số liệu tổng hợp, vô danh hoá khi cần); Dữ liệu mở có phân tầng, minh bạch và dễ tiếp cận (công bố chỉ số tổng hợp cho công chúng; giữ lớp dữ liệu nhạy cảm cho quản lý nội bộ); Cập nhật định kỳ, có quy trình thống nhất toàn quốc (quy định chu kỳ cập nhật hằng quý, 6 tháng, hàng năm và phương pháp thu thập); Tham gia và phản biện của địa phương cộng đồng sáng tạo, đảm bảo tính đại diện và thực tế; Khả năng mở rộng kỹ thuật, hỗ trợ phân tích bằng Big Data, API, AI/ML để phân tích nâng cao.

Xin cảm ơn bà!

Văn Thanh