Báo Đại Đoàn Kết Du lịch

Xóa rào cản để tiếp cận thị trường Halal

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Xóa rào cản để tiếp cận thị trường Halal

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News
Xóa rào cản để tiếp cận thị trường Halal
Vịnh Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh) là điểm đến lý tưởng cho khách du lịch Hồi giáo. Ảnh: Q.N

Theo các chuyên gia, Việt Nam cần có một khung pháp lý thống nhất và đồng bộ để doanh nghiệp trong nước có cơ hội tiếp cận với thị trường Halal đầy tiềm năng.

Theo Bộ Công thương, Halal bao gồm hầu như tất cả sản phẩm thiết yếu của cuộc sống như thực phẩm, đồ uống, thực phẩm hữu cơ, thực phẩm chức năng, dược phẩm, mỹ phẩm, dệt may, thủ công mỹ nghệ đến lĩnh vực dịch vụ như: ngân hàng, du lịch, an ninh, giáo dục và đào tạo, dịch vụ ăn uống, khách sạn, logistics. Thị trường tiêu thụ sản phẩm Halal phân bổ khắp thế giới, từ các nước Hồi giáo đến phi Hồi giáo, từ các nền kinh tế phát triển đến đang phát triển, do các sản phẩm Halal đáp ứng nhiều tiêu chí về vệ sinh an toàn thực phẩm, sức khỏe, chất lượng, xanh, sạch, có đạo đức trong chế biến và góp phần bảo vệ môi trường…

Thị trường Halal toàn cầu có tiềm năng rất lớn xét về quy mô dân số Hồi giáo, với khoảng 2,1 tỷ người, chiếm gần 1/4 dân số thế giới. Quy mô nền kinh tế Halal toàn cầu đạt 7.000 tỷ USD năm 2022 và dự kiến tăng lên khoảng 10.000 tỷ USD năm 2028 nhờ tăng trưởng quy mô dân số Hồi giáo. Hiện nay, trên cả nước có khoảng 90.000 tín đồ Hồi giáo trong đó Hồi giáo (Islam) có trên 36.000 tín đồ, sinh sống tập trung đông nhất tại tỉnh An Giang, TPHCM, tỉnh Tây Ninh và tỉnh Khánh Hòa. Đã có 4 tổ chức Hồi giáo (Islam) được Nhà nước công nhận. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chỉ có khoảng 20 mặt hàng xuất khẩu ở thị trường Halal.

Báo cáo gần đây được Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) gửi tới Chính phủ và Bộ Tư pháp chỉ ra một số bất cập như: Hiện tại, Việt Nam chưa có một khung pháp lý thống nhất và đồng bộ để quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh và chứng nhận sản phẩm, dịch vụ theo tiêu chuẩn Halal. Điều này tạo ra những khó khăn, vướng mắc cho cả cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp trong việc phát triển ngành Halal. Tiêu chuẩn và chứng nhận Halal trên thế giới rất đa dạng, chưa có tiêu chuẩn chung toàn cầu. Thực trạng này dẫn đến việc doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu sang nhiều thị trường khác nhau phải xin nhiều loại chứng nhận, tốn kém chi phí và thời gian do các đòi hỏi khắt khe. Số lượng doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường Halal còn rất khiêm tốn. Doanh nghiệp Việt Nam gặp phải cạnh tranh gay gắt từ các nước có cơ cấu xuất khẩu tương đồng và đã quen với thị trường Halal như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan.

Bộ KHCN cũng đưa ra phương án về Dấu chứng nhận Halal và thừa nhận kết quả quốc tế. Theo đó, Dấu chứng nhận Halal được sử dụng để chứng tỏ sản phẩm, dịch vụ đã được một tổ chức có thẩm quyền đánh giá và xác nhận phù hợp với tiêu chuẩn Halal. Đáng chú ý, kết quả chứng nhận của tổ chức nước ngoài có thể được thừa nhận tại Việt Nam nếu thuộc khuôn khổ các Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA) mà Việt Nam là thành viên, hoặc được công nhận bởi các tổ chức công nhận quốc tế, khu vực hoặc các cơ quan có thẩm quyền về Halal uy tín trên thế giới.

Trong phương án của mình, Bộ KHCN đưa ra quy định rõ nội dung kiểm tra đối với cả doanh nghiệp sản xuất và tổ chức chứng nhận. Trình tự, thủ tục kiểm tra sẽ tuân theo pháp luật về kiểm tra chuyên ngành. Mọi hành vi vi phạm các quy định trong Nghị định sẽ bị xử lý vi phạm hành chính tùy theo tính chất và mức độ, dựa trên Luật Xử lý vi phạm hành chính và các nghị định liên quan. Trong đề xuất tới Chính phủ, Bộ KHCN nhấn mạnh tới vài trò của Nhà nước ban hành nhiều chính sách hỗ trợ ngành Halal, bao gồm: chủ động đàm phán, ký kết các thỏa thuận quốc tế; hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển thị trường; hỗ trợ về nguồn lực như chi phí tư vấn, đào tạo, chứng nhận và xây dựng Cơ sở dữ liệu Halal quốc gia.

Khắc Hạnh