'Yếu tố người dân'
Tọa đàm - đối thoại trực tuyến giữa đại diện Tổng cục Biển và hải đảo với các nhà quản lý, luật sư, nhà báo, do Trung tâm Truyền thông giáo dục cộng đồng thuộc Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tổ chức chiều 15/7, tại Nha Trang đã thu hút sự chú ý của dư luận. Vấn đề cấp phép nhận chìm gần 1 triệu mét khối “vật chất” xuống vùng biển huyện Tuy Phong (tỉnh Bình Thuận) lại được xới lên.
Nhận chìm chất thải xuống biển, cần bảo đảm an toàn môi trường và đời sống người dân trong khu vực.
Trong tọa đàm - đối thoại trực tuyến này, đại diện Tổng cục Biển và hải đảo khẳng định, số “vật chất” được cho phép nhấn chìm khác với bùn thải. Khẳng định này nhất quán với quyết định trước đó của Bộ Tài nguyên-Môi trường (Giấy phép số 1517/GP-BTNMT, ngày 23/6/2107, chấp thuận cho Công ty TNHH điện lực Vĩnh Tân 1 nhận chìm 918.533 m3 bùn, cát, vỏ sò, sạn sỏi ra vùng biển thuộc xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận). Đại diện Tổng cục Biển và hải đảo cũng cho biết, trong quá trình nhận chìm “vật chất” nếu có sự cố thì sẽ dừng ngay.
Tuy nhiên, những ý kiến và quyết định kể trên vẫn không giúp dư luận an tâm. Theo Luật sư Nguyễn Toàn Thiện- Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Bình Thuận thì đáng tiếc là Dự án “nhận chìm vật chất” đã không tham vấn ý kiến của các hộ nuôi tôm, hải sản trong vùng cũng như các hộ dân có quyền lợi, trách nhiệm liên quan theo quy định pháp luật. Còn ông Phạm Văn Chi- nguyên Chủ tịch UBND tỉnh, Chủ tịch Hội Trí thức tỉnh Khánh Hòa thì cho rằng nên tạm dừng việc nhận chìm chất thải xuống vùng biển này.
Trước đó, ngày 13/7, thông tin với HĐND tỉnh Bình Thuận, ông Phạm Ngọc Sơn- Phó Tổng cục trưởng (phụ trách) Tổng cục Biển và hải đảo Bộ TNMT khẳng định luật pháp hiện nay (Luật Biển và hải đảo) cho phép nhận chìm bùn cát sau nạo vét ra biển. Các vật chất nhận chìm không độc hại và nằm trong danh mục các chất được luật cho phép nhận chìm. Tuy nhiên, ý kiến nhiều chuyên gia vẫn cho rằng không nên nhận chìm chất thải xuống biển, nhất là khi địa điểm nhận chìm lại cách khu bảo tồn biển Hòn Cau không xa. Dù gọi là bùn, “vật chất”..., hay gì chăng nữa, thì thực chất đây vẫn là xả thải, có thể hủy hoại vĩnh viễn cả một vùng biển giàu có và độc nhất vô nhị về nhiều mặt của Việt Nam.
Trong đó, ý kiến của TS Nguyễn Tác An- nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang và PGS.TS Nguyễn Chu Hồi (ĐHQG Hà Nội, Chủ tịch Hội Thiên nhiên và môi trường biển Việt Nam) là rất đáng chú ý khi cho rằng, hoạt động nhận chìm sẽ gây tác động đến môi trường như thế nào thì Báo cáo Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) không nói, mà chỉ chứng minh các vật chất đó không gây ô nhiễm là không đúng.
Vấn đề môi trường tiếp tục nóng khi mà mới đây đại diện Tổng Công ty phát điện 3 thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết đang xúc tiến xin giấy phép đổ xuống biển xã Vĩnh Tân 2,4 triệu m3 bùn cát thải sau nạo vét (cách Hòn Cau khoảng 10 km). Nếu đề nghị được chấp thuận thì vùng biển này sẽ phải chịu gần 3,5 triệu mét khối chất thải. Câu chuyện môi trường cũng lại khiến người ta trăn trở thêm khi mà trong khi vấn nạn “bom nước” lơ lửng trên đầu tại những cánh rừng miền Trung-Tây Nguyên thì mới đây UBND Quảng Nam lại có Tờ trình gửi HĐND tỉnh, đề nghị bổ sung 4 dự án thủy điện vừa và nhỏ trên địa bàn Nam Trà My.
Theo tờ trình, 4 dự án gồm Trà Linh 1; Tăk Lê; Nước Lah và Trà Leng có công suất 78,8 MW, tổng diện tích khoảng 144 ha. Trong đó, đất lâm nghiệp 60 ha thuộc đất rừng phòng hộ và rừng sản xuất. Cũng cần nhắc lại rằng, tại huyện Nam Trà My có thủy điện Sông Tranh 2, từng bị nứt và thời gian qua một số khu vực ở huyện này đã nhiều lần xảy ra động đất, cường độ cao nhất 3,9 độ Richter.
Những bài học về sự cố môi trường không ít và hậu quả là rất lớn. Ở đây, câu chuyện trở nên nghiêm trọng khi liên quan trực tiếp và lâu dài đến cuộc sống người dân. Cả chuyện xả thải ra biển hay là xây dựng nhà máy thủy điện với mật độ quá dày đặc thì cũng đều tác động đến môi trường và người dân trong vùng chịu ảnh hưởng đầu tiên. Nếu vậy, họ phải được tham vấn theo quy định pháp luật, họ phải được hỏi ý kiến và kiến nghị của họ phải được lắng nghe và giải quyết. Đáng tiếc là trong rất nhiều trường hợp, do quá chú trọng đến việc tăng tốc phát triển nên người dân rất ít khi được hỏi ý kiến, kể cả khi họ có kiến nghị thì cũng không được lắng nghe đầy đủ. Nói tóm lại là “yếu tố người dân” đã bị bỏ qua. Trong khi từng ngày từng giờ họ phải đối diện với môi trường sống đã bị thay đổi, dù ít dù nhiều.
Nếu được tham vấn đầy đủ, được giải thích rõ ràng minh bạch, thấy có lý thì người dân nào có cạn hẹp gì, sẽ đồng lòng để cho những công trình mọc lên trên quê hương mình. Vì đó chính là sự phát triển. Ai lại không mong quê hương mình phát triển. Một công trình tốt, một dự án tốt thì đương nhiên người dân sẽ được thụ hưởng, không ai lại không đồng ý với điều đó. Nhưng khi người dân băn khoăn thì cần phải được lắng nghe. Lỗi ở đây chính là không tôn trọng, lắng nghe dân, không giải thích rõ ràng, của cả doanh nghiệp lẫn chính quyền cơ sở. Họ đã bỏ qua “yếu tố người dân”.
Ứng xử với môi trường cũng chính là ứng xử với người dân. Không đánh đổi môi trường lấy sự phát triển kinh tế thì lại càng phải chú ý đến cuộc sống của người dân hơn. Với cả triệu mét khối chất thải nhấn chìm xuống biển, chưa nói đến có gây ô nhiễm môi trường hay không, nhưng việc các loài hải sản sợ hãi mà đi nơi khác thì “nhắm mắt cũng thấy”. Vậy, người dân quen việc đánh bắt, nuôi trồng hải sản trong vùng sống bằng cách nào? Hay như chuyện xây dựng thêm 4 nhà máy thủy điện tại một huyện, diện tích rừng thu hẹp, đất đai thu hẹp, người dân nơi đó ứng phó ra sao? Điều đó phải được đặt lên hàng đầu trước khi đi đến một quyết định, nhất là khi quyết định đó tác động trực tiếp và lâu dài đến môi trường thiên nhiên và môi trường sống, điều kiện sống quen thuộc của người dân.
Cả chuyện xả thải ra biển hay là xây dựng nhà máy thủy điện với mật độ quá dày đặc thì cũng đều tác động đến môi trường và người dân trong vùng chịu ảnh hưởng đầu tiên. Nếu vậy, họ phải được tham vấn theo quy định pháp luật, họ phải được hỏi ý kiến và kiến nghị của họ phải được lắng nghe và giải quyết. Đáng tiếc là trong rất nhiều trường hợp, do quá chú trọng đến việc tăng tốc phát triển nên người dân rất ít khi được hỏi ý kiến, kể cả khi họ có kiến nghị thì cũng không được lắng nghe đầy đủ. Nói tóm lại là “yếu tố người dân” đã bị bỏ qua. |