Cuộc trò chuyện sau đây với nhà thơ Huy Cận diễn ra tháng 8/2002. Tiếp trưởng lão làng thơ Việt là hai nhà thơ hậu sinh Nguyễn Quang Thiều và Hồng Thanh Quang, cùng nhà báo trẻ Trịnh Việt Đông. Đó đã là một cuộc trò chuyện công phu, kỹ lưỡng, đầy cảm xúc… Những ghi chép còn lại từ cuộc trò chuyện đó, ngày hôm nay đọc lại, vẫn có thể tạo cho độc giả những suy tư không kề cũ…
Minh họa: nhaxuanbanvanhoc
“Bài hay xen lẫn với bài vừa”
Nhà thơ Huy Cận: Đây là lá thư mà ông Chirac viết cho tôi khi tôi là Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam. Ông ấy gọi tôi là gọi tôi là Maitre, bậc thầy! Ít khi người Pháp gọi người khác là bậc thầy lắm.
Phóng viên: Nhưng thư này là gửi cho cá nhân nhà thơ Huy Cận hay là gửi cho ông Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam?
- Thư là gửi cho cá nhân tôi và nội dung thư là ca ngợi tập thơ của tôi in bằng tiếng Pháp. Tôi đã gửi tặng ông Chirac, lúc đó là thị trưởng Paris tập thơ đó và ông có hồi âm lại như vậy.
Ông Jacques Chirac là người rất thích thơ, ông ấy đã từng dịch thơ Puskin từ tiếng Nga ra tiếng Pháp.
- Dịch thơ hay không, nhưng mà họ cũng rất kính trọng tôi cái đã...
Bác photo lá thư này ra cũng nhiều bản nhỉ?
- Còn nhiều người khác cũng cần nữa chứ! Đấy là tài liệu thứ nhất, còn tài liệu thứ hai nữa nhé, thơ của Bác Hồ tặng tôi. Năm 1963, tôi ra tập “Bài thơ cuộc đời”. Tôi có kính biếu Bác một bản để Bác cho nhận xét. Hai ba hôm sau, anh Việt Phương mang đến cho tôi một tờ báo, ở bên lề có chứ Bác ghi bốn câu thơ tặng tôi. Mà lạ, Bác viết tất cả đều dấu ngã hết, dấu ngã là dấu ngã đã đành, mà dấu hỏi cũng thành dấu ngã luôn. Bốn câu thơ đó như sau:
Cảm ơn chú biếu Bác quyển thơ
Bác xem quyển thơ suốt mấy giờ
Muốn Bác phê bình khó nói nhỉ
Bài hay xen lẫn với bài vừa...
Tức là không có bài dở?
- Có câu chuyện vui thế này, một ông nhà thơ cũng là chỗ thân tình, khi tôi sướng quá mang đi khoe lời bình của Bác “Bài hay xen lẫn với bài vừa”, thì ông ấy nói “May thôi, anh gặp may thôi. Tại vì trên kia Bác để vần ơ thì ở dưới mới là vừa, chứ ở trên kia Bác để vần ở thì sẽ là Bài hay xen lẫn với bài dở”. Tôi mới nói luôn: “Hừ, rõ ràng là anh chê tài làm thơ của Bác Hồ. Bác Hồ là làm thơ thiên biến vạn hoá. Đầu tiên là vần ơ, nhưng muốn hay dở gì thì Bác vẫn có cách chuyển vần. Hóa ra lại có một người dám chê tài làm thơ của Bác. Tôi sẽ đi mách với Bác”. “Ấy, ai dám chê!”. “Thì rõ ràng là anh nói Bác bị động vì cái vần ơ, mà đã làm thơ mà bị động về vần thì là làm thơ dở. Thế thì anh có công nhận câu “Bài hay xen lẫn với bài vừa” là đúng ý của Bác không?”. “Đúng, đúng rồi”, thế là ông ấy chịu thua.
Kỷ niệm
Cách mạng mùa Thu
Lần đầu tiên ông gặp Cụ Hồ là bao giờ?
- Năm 1945, lúc vào Đại hội Tân Trào. Khi ấy, anh Trần Huy Liệu giới thiệu tôi vào Ủy ban Dân tộc Giải phóng. Tôi nhớ là hôm đó bầu 15 người. Đến lượt tôi, anh Trần Huy Liệu giới thiệu: “Nhà thơ Huy Cận, bây giờ đã “bỏ bút nghiên theo việc đao cung”, xin Đại hội bầu vào Ủy ban Dân tộc Giải phóng”. Bỗng nhiên, ở hàng đầu có một ông dáng cao cao đứng lên nói: “Tôi không đồng ý!”. Tôi chột dạ, chắc ông này không muốn bầu mình vào Ủy ban. Anh Trần Huy Liệu mới hỏi tại sao, thì ông phản đối mới nói thế này: “Tôi không đồng tình với việc “bỏ bút nghiên theo việc đao cung”; bầu nhà thơ Huy Cận nổi tiếng vào Ủy ban thì tôi đồng tình, nhưng mà bỏ bút nghiên là không đúng. Bút nghiên cũng là vũ khí đấu tranh cho độc lập dân tộc”. Người ấy là ai? Người ấy là đồng chí Tống (bí danh của đồng chí Phạm Văn Đồng). Cả ông Liệu và tôi thở phào một cái... Ở Đại hội Tân Trào có hai người làm thư ký đoàn là anh Khuất Duy Tiến và tôi... Đây này, đây là ảnh của Chính phủ lâm thời năm 1945! Cụ Hồ đây; còn đây là ông Trần Huy Liệu, Phó chủ tịch; ông Vũ Đình Hòe, Bộ trưởng Bộ Giáo dục quốc gia; ông Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Nội vụ; ông Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Bộ Tài chính; ông Nguyễn Mạnh Hà, Bộ trưởng Bộ Kinh tế quốc gia; ông Hoàng Tích Chí, Thứ trưởng Bộ Y tế; ông Hoàng Minh Giám, Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ; ông Vũ Trọng Khánh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp; còn đây nữa, ông Cù Huy Cận, Bộ trưởng Bộ Canh nông (cười). Còn đây là ảnh Chính phủ trong kháng chiến ở Việt Bắc, Cụ Hồ đây, tôi được ngồi cạnh Cụ Hồ. Hôm đó, tôi đang tìm chỗ đứng thì Cụ bảo: “Chú ngồi đây”. Thế là Cụ Hồ ngồi đây và tôi ngồi đây. Lúc ấy, tôi 30 tuổi, năm 1949... Còn đây là hình Huy Cận năm Lửa thiêng ra đời, cũng khá đẹp trai đấy chứ (cười).
Trong con mắt của Huy Cận, Cụ Hồ hồi ấy như thế nào?
- Khi lần đầu tiên tôi nhìn thấy, Cụ mặc quần áo chàm của người Tày, đội một cái mũ cátkét, người gầy yếu, mặt tái xám bởi vì sau một cơn sốt rét, nhưng mà hai con mắt quả thực là sáng, hai con mắt sáng rực...
Cảm xúc của ông hồi đấy?
- Tất nhiên là rất xúc động... Hôm đó, mình đang đứng ở cái cột thì người ta chỉ một ông cụ đang đi vào và bảo, Cụ Nguyễn Ái Quốc đấy. Ai chứ cái tên Nguyễn Ái Quốc thì mình được nghe từ lâu, từ hồi đi học ở Huế. Bỗng nhiên, Bác ngoắc tôi lại nói chuyện. Câu đầu tiên Bác gọi là chú, “Chú hoạt động ở đâu về?” Lần đầu tiên được một lãnh tụ tối cao hỏi như vậy, mình xúc động nhưng cũng lúng túng. Lúc đó tôi đang bận áo quần Đại hội, trên đường đi thì mặc quần áo công nhân, lên mới thay áo quần bằng simili màu trắng, đi giày giôn, nhưng mà đáng lẽ không nên mặc như thế, cứ mặc như bình thường thì hơn. Tôi nói: “Thưa Cụ, con mới hoạt động ở Hà Nội ba, bốn năm nay, con cũng noi theo gương Cụ và các anh đi trước đem nhiệt huyết của mình góp phần vào công việc cứu nước”. Cụ mới hỏi tiếp: “Thế chú hoạt động trong giới nào?”, “Thưa Cụ, con là nhà thơ, nhưng mà con hoạt động trong giới trí thức khoa học và Tổng hội sinh viên”. Bác mới nói bảo: “Chú còn trẻ, còn thanh niên, chú hoạt động trong giới trí thức khoa học là tốt. Lúc này cần mọi người hoạt động để cứu nước. Còn như hoạt động cách mạng thì không cần kẻ trước người sau, tham gia sau mà đem hết nhiệt huyết của mình làm việc thì có thể cũng góp vào thành công chung. Chú cứ yên tâm mà hoạt động với anh em”. Câu ấy tôi nhớ suốt đời....
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và nhà thơ Hồng Thanh Quang trao đổi với nhà thơ Huy Cận. (Ảnh: Trịnh Việt Đông).
“Nam Phương hoàng hậu đẹp lắm”
Ông từng là người cùng hai ông Trần Huy Liệu và Nguyễn Lương Bằng vào Huế lấy ấn kiếm của Bảo Đại. Lần đầu tiên nhìn thấy Bảo Đại, ông có cảm giác gì?
- Tôi nói thật đấy, ngay trước Cách mạng khi tôi đang còn là sinh viên, Bảo Đại đối với tôi chả là cái gì cả. Bởi vì mình là một người Cách mạng, mà cũng chưa nói đến Cách mạng đi nữa thì mình là một người trí thức có suy nghĩ, Bảo Đại chả có nghĩa lý gì đối với tôi hết cả, không có nghĩa lý gì. Một ông vua bù nhìn!
Còn Nam Phương Hoàng hậu có đẹp không ạ?
- Nam Phương thì quá đẹp đi rồi, tôi nhìn thấy qua ảnh thôi, bà ấy đẹp thật. Cha này nó cũng chọn được người vợ đẹp (cười). Nhưng mà cũng là do bị ép thôi, Tây nó ép...
Thái độ của Bảo Đại lúc mình thu ấn kiếm như thế nào?
- Thực ra lúc đầu, Bảo Đại chưa muốn thoái vị đâu, mà quan Nhật thì vẫn ủng hộ ông ấy ở lại để làm một cái chính quyền thân Nhật gì đấy. Thế nhưng ông Phạm Khắc Hoè, lúc đó đang là Đổng lý triều đình Huế, là một người thức thời, hiểu thời thế nên đã gặp ông Tôn Quang Phiệt bàn cách thuyết phục Bảo Đại, mà ông Phiệt lại dưới sự chỉ đạo của ông Tố Hữu, hồi bấy giờ là Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa Huế. Dần dần, Bảo Đại cũng nghe ra. Thêm vào đó là những bức điện từ Hà Nội đánh vào đề nghị nhà vua thoái vị ngay, giao quyền cho Việt Minh để mà giành độc lập. Bảo Đại thoạt đầu cứ băn khoăn “Việt Minh là ai? Ai đứng đầu?” Khi biết đó là Nguyễn Ái Quốc thì Bảo Đại mới nói, trong nội bộ thôi, là nếu là Nguyễn Ái Quốc thì đáng cho tôi thoái vị...
Chiều 29/8, chúng tôi vào gặp Bảo Đại. Lúc ấy Bảo Đại chưa vận triều bào mà mặc chiếc áo xanh, đi giầy cườm tiếp chúng tôi. Ông ấy nói một câu cảm động, mà tôi thấy đúng là ông cảm động thật: “Tôi rất sung sướng được gặp phái đoàn của Chính phủ Cách mạng. Xin thưa với các ngài, 20 năm làm vua tôi chỉ những ngậm đắng nuốt cay, có những việc tôi muốn làm cho dân mà người ta không cho tôi làm”... Còn ngày 30-8 thì hẹn nhau rồi, Bảo Đại đón chúng tôi lên lầu Ngọ Môn một cách rất là trân trọng, kính trọng, Chính phủ lâm thời chứ chuyện đùa à... Đến giờ, ông Trần Huy Liệu đọc bài phát biểu, bài phát biểu bây giờ tôi vẫn còn giữ, ngắn thôi, đại khái “Thưa Quốc dân đồng bào, đã 1.000 năm bây giờ ta mới có dân chủ. Đã 100 năm mất nước bây giờ ta mới có độc lập. Bây giờ chính thức thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, thủ đô là Hà Nội”... Đại khái như thế, xúc động lắm. Xong thì Bảo Đại đọc chiếu thoái vị, chiếu thoái vị đó cũng ngắn và khá hay, người thảo cái chiếu đó là ông Phạm Khắc Hoè, cái chiếu thoái vị khá hay, tất nhiên là đề cao chủ quyền, các tiên đế thì cũng được vì thực ra là họ cũng có công, nói chung khá xúc động. Nhưng mà Bảo Đại đọc lập bập lắm, Bảo Đại vận áo triều bào một lần cuối cùng, ông vua cuối cùng của một triều đại cuối cùng, sau này Bảo Đại trở lại làm vua bù nhìn thì không vận triều bào nữa, và đi giày cườm, đóng khăn vàng, vận triều bào có thêu con rồng đằng trước, đọc cái chiếu thoái vị không được suôn sẻ, đọc hơi bập bẹ.
Có hai lý do: giờ phút ấy quá nghiêm trọng, giờ lịch sử cuối cùng mà, thành ra ông ấy đọc xúc động; nhưng mà lý do thứ hai tôi nói nhiều người đồng tình là cái ông này hàng ngày không quen nói tiếng Việt, tất nhiên là người mình nhưng mà không quen nói tiếng Việt, ông ấy họp triều nhưng mà toàn nói tiếng Pháp, về gia đình ông ấy cũng nói tiếng Pháp với mẹ, bà Từ Cung không hiểu lại phải có người dịch. Con Tây mà, được nuôi ở Tây (cười). Đọc xong thì giao ấn kiếm cho anh Liệu, anh Liệu là trưởng đoàn mà, anh Liệu chuyển cho tôi. Cái ấn ấy thì hơn 8kg, đúc thời Minh Mạng, ông Liệu cũng lo vì không giơ lên được, tôi thì tôi cầm 8kg bình thường thôi; nhưng mà đến khi trao cái kiếm cho ông Liệu, ông Liệu chuyển cho tôi thì tình cờ tôi rút cái kiếm ra, vỏ bên ngoài thì là vàng dát ngọc nhưng mà bên trong thì cái thằng cha chuẩn bị nó quên mài kiếm, rỉ hết. Thì tôi mới nói qua micro “Thưa đồng bào, kiếm của nhà vua rỉ hết rồi!”. Đồng bào cười ồ. Cái này trong hồi ký tôi cũng có viết. Mình nói một câu tình cờ thôi, cuối cùng lại thành ra một câu tượng trưng, kiếm là quyền lực, mà lại rỉ hết, đại khái như thế... Tới ngày 31/8, chúng tôi lên đường về Hà Nội.
Có một câu ca là “Học trò trong Quảng ra thi. Gặp cô gái Huế bỏ đi không đành”. Nói vậy để thấy sức hấp dẫn của con gái Huế. Nghe nói trong đoàn của ông có 3 người thì có một người đã dính phải một mối tình với một người phụ nữ Huế, có đúng không?
- Các anh là hậu sinh thì không biết rõ chuyện này rồi. Ông Trần Huy Liệu với tôi thì rất thân, tôi quý ông ấy từ hồi còn thanh niên lúc tôi còn đi học, ông ấy cũng quý tôi vì ông ấy đọc thơ Huy Cận nhiều. Hồi đi lên dự Hội nghị Tân Trào, dọc đường tôi phải cõng ông ấy vì anh Liệu bị thọt, đi không đều, mà dọc đường thì trời mưa ướt trơn... Ông Trần Huy Liệu hồi đang còn làm báo Thanh niên, cách mạng rồi nhưng mà còn đang trẻ thì mê cô con gái của cụ Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc. Cô ấy đẹp lắm, đẹp cực kỳ, tuyệt thế giai nhân. Cô ấy bán sách ở phố Hàng Ngang. Thế nên ông Trần Huy Liệu hàng ngày cứ cuốc bộ thôi, không đi xe đạp mà chắc cũng không có xe đạp, cuốc bộ từ đầu phố Hàng Than ra phố Hàng Ngang gọi là để xem sách nhưng mà chủ yếu để ngắm cô con gái (cười). Cô ấy cũng biết nhưng rồi cuối cùng mọi chuyện cũng không đi đến đâu cả. Cô con gái ông Ngọc được gả cho con của một yếu nhân ở Huế. Lúc ấy mình đang học trường Quốc học Huế, bà ấy hơn tôi đến gần chục tuổi, ít ra là bảy tám tuổi, mà tôi còn thấy mê cho nên ông Liệu ông ấy mê bà là phải. Trong dịp vào tiếp ấn kiếm của Bảo Đại, có lẽ ông Liệu đã gặp lại bà, lúc ấy bà ấy vừa bị góa chồng. Và không hiểu bằng cách nào ông Liệu đã bí mật mang bà ấy ra được miền Bắc, giấu bà ở Thái Hà ấp. Đến khi bắt đầu kháng chiến thì ông mới đem bà này lên ở Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Tôi kể cái chuyện này nhé, trong kháng chiến bà vợ tao khang của ông Liệu từ Nam Định lên thì lại ở Đại Từ. Từ Đại Từ lên Lập Thạch thì cũng gần thôi, qua cái đèo thôi. Thỉnh thoảng ông vẫn mò lên chỗ Lập Thạch gặp người năm cũ, tất nhiên là phải xin phép vợ. Tôi hỏi ông như thế này: “Anh Liệu ơi, mỗi một lần như thế xin phép có khó khăn không?”. “Tớ trước khi đi phải đóng thuế”. “Có nhiều không?”. “Cũng nặng đấy, hai ba lần thuế đấy!” (cười). Trần Huy Liệu nói với tôi hết. “Thế nộp thuế rồi lên trên kia có còn dư sức để nộp thuế mới không?”. “Có chứ!” (cười). Một người si tình thật! Hay!
“Làm thì ra kinh nghiệm”
Năm 1945, 26 tuổi, ông là Bộ trưởng Bộ Canh nông. Trên cương vị ấy, ông có làm được gì không?
- Trời ơi, rất có công! Anh nói như vậy là anh nghi ngờ thành tích của Bộ Canh nông hả? (cười). Được rồi, để tôi nói cho mà nghe. Tôi làm Bộ trưởng Bộ Canh nông từ tháng 9-1945 cho đến hết tháng 3-1946, khi thành lập Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến thì tôi không làm Bộ trưởng nữa và Cụ Hồ giao cho ông Bồ Xuân Lập làm Bộ trưởng. Nhưng tôi không đi đâu cả. Cụ Hồ bảo: “Chú cứ ở đấy nhưng mà chú làm Thứ trưởng, và bây giờ mọi việc chú cứ làm như trước, chỉ có việc ký là người khác”. Sau trận đói Ất Dậu, đến lúc bấy giờ vẫn đói, nhiệm vụ của Bộ Canh nông rất cụ thể là tăng gia sản xuất gấp để cứu đói. Tôi lúc đó được các anh em giúp việc như Hoàng Văn Đức, Bùi Huy Đáp... Chương trình của Bộ Canh nông là phải tăng gia sản xuất cứu đói bằng cách sản xuất những thứ ăn ngay, ăn nhanh như ngô 3 tháng, lúa 3 tháng, trồng rau, rau muống trồng khắp nơi, rồi nuôi gà, nuôi vịt... Thế nhưng lấy vốn đâu, lấy gì ra để đầu tư? Thì đây, có một nguồn đầu tư rất lớn là sức lao động đông đảo của bà con nông dân. Và những biện pháp mà Bộ Canh nông đưa ra đã có kết quả ngay: trên đường đi chỗ nào cũng thấy trồng rau. Thế là công tác cứu đói có kết quả ngay, cái thành tích lớn là như thế. Đồng thời, thành tích thứ hai là xây dựng cơ sở cho bộ máy canh nông, từ Bộ, rồi Cục, Viện nghiên cứu, Sở Canh nông ở các tỉnh... Việc tổ chức bộ máy rất nhanh và anh em làm việc tích cực lắm. Tôi xin nói với các anh một câu mà thường thường người ta hay quên, đó là “thần thiêng nhờ bộ hạ”. Tôi là Bộ trưởng, tất nhiên tôi cũng là một kỹ sư canh nông, nhưng nhờ có anh em đoàn kết chung sức với mình, Hoàng Văn Đức rất có công, Bùi Huy Đáp rất có công. Phải biết là trong Cách mạng Tháng Tám, Nông hội có uy tín rất lớn. Nhân đây, tôi cũng xin nói với các anh rằng, Cách mạng Tháng Tám là do nông dân làm nên là chủ yếu. Nông hội hồi đó có uy tín lắm, gần như là chính quyền thứ hai rồi...
Khi ông còn rất trẻ, ông làm Bộ trưởng thì nói chung là rất khó khăn rồi, vì khi ta trẻ ta đã có kinh nghiệm gì đâu...
- Cứ làm thì nó ra kinh nghiệm. Các anh không biết cái câu nổi tiếng à: “Làm thì ra kinh nghiệm”!
Thế việc ông làm Bộ trưởng so với sau này khi ông đã lớn tuổi làm Thứ trưởng thì...
- Khoan, khoan!... Nhà nước, cụ thể là Đảng và Bác Hồ giao gì thì tôi làm nấy, không có băn khoăn thắc mắc là tại sao lại hạ chức...
Không, ý chúng tôi muốn hỏi là, khi nào ông cảm thấy khó khăn hơn?
- Tôi nói cho các ông nghe nhé, khi ấy tôi mới 26 tuổi, cũng mới ra trường được vài năm thôi, đã làm Bộ trưởng, mà tôi làm được. Cái ấy là nhờ anh em, nhưng mà trên hết là được sự dìu dắt của Bác Hồ, của Đảng... Hai nữa, không biết là tôi khoe hay cái gì nữa, nhưng có một cái mẫn cán như thế nào đó, công việc nặng mình cảm thấy mình cũng nắm được, và bởi vì mình có ý thức về chính trị, mình có ý thức về văn hóa, thành thử mình dễ nắm. Và, quan trọng nhất là dựa vào anh em, “thần thiêng nhờ bộ hạ” mà (cười).
Ba tập thơ của Huy Cận có lời ký tặng của ông với các bạn văn. (Ảnh: H.V.).
Tình thơ song đôi
Ông với nhà thơ Xuân Diệu gặp nhau như thế nào?
- Tôi với Xuân Diệu gặp nhau lần đầu tiên ở Trường Quốc học Huế tháng 9-1936. Lúc bấy giờ, đấy mới chỉ là trường tú tài ở Huế, gọi là Trường Khải Định. Những người học sinh quê ở Trung Kỳ thường về học năm thứ 3 ở Huế. Anh Diệu đậu phần tú tài thứ nhất ở Hà Nội, ở Trường Bưởi, nhưng đến năm thứ ba, không chỉ mình anh Diệu mà còn một số người nữa cũng về học ở Trường Khải Định. Lúc bấy giờ, tôi mới vào năm thứ nhất của trường tú tài, còn anh Diệu đã năm thứ 3. Gặp nhau thì có một người giới thiệu, bảo: ồ, hai ông Hà Tĩnh mà đều làm thơ cả! Đọc thơ thì thích, nên có thể nói là kết nghĩa ngay lập tức, từ đó trở đi thành đôi bạn suốt đời. 50 năm, kết bạn từ năm 1936 cho đến lúc anh Diệu qua đời, tình bạn chúng tôi đã có với nhau hơn 49 năm, 49 năm mấy tháng, có thể nói là nửa thế kỷ tình bạn.
Trong tập “Thơ thơ”, Xuân Diệu có viết là “Tôi thích Rimbaud và Verlaine. Hai chàng thi sĩ choáng hơi men. Say thơ xa lạ, mê tình bạn, Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen”...
- Viết trước khi gặp tôi. Đó là ông nghĩ đến cái tình giữa Verlaine và Rimbaud thôi, chứ không phải viết là do tôi và Xuân Diệu gặp nhau.
Cả ông và nhà thơ Xuân Diệu hồi trẻ đều uống rượu chứ?
- Anh Diệu có uống rượu nhưng không uống nhiều, chỉ thưởng thức rượu. Còn tôi thì tuyệt đối từ trước đến nay không bao giờ uống rượu. Từ hồi đi học, rồi tới tuổi thanh niên và cho đến mãi sau này, ngay cả khi đi hoạt động quốc tế, hễ ai mời uống rượu thì tôi cũng nói rất thẳng thắn là tôi không biết uống rượu. Tôi không uống rượu, không hút thuốc lá, nhờ thế mà khỏe đấy... Một số nhà thơ bị ung thư, mất sớm là do uống rượu nhiều quá đấy...
Ký ức tình yêu
Hồi trẻ, ông đẹp trai như thế này, thì nhiều cô mê lắm...
- Cũng có đẹp trai. Tôi nói thế này, tình yêu của tôi cũng như tình yêu của nhiều người, không có cái gì đặc biệt. Có những tình yêu lâu dài, dai dẳng cho đến tận sau này, cũng có những tình yêu ngắn ngủi và cũng có cả những tình yêu không thành, chứ không có gì đặc biệt. Anh cũng thế, ai cũng thế thôi, có những tình yêu không thành, mình muốn mà không thành, có những tình yêu thì thành nhưng mà ngắn ngủi, có những tình yêu dai dẳng suốt đời... Tôi cũng may là có được nhiều tình yêu, cho nên...
...Làm được thơ?
- Tất nhiên, nhưng nó cũng chỉ là một nguồn thôi chứ không phải là nguồn duy nhất. Tình yêu đôi lứa không phải là nguồn thơ duy nhất. Còn có tình yêu đất nước, tình yêu thiên nhiên... Nhưng tôi cũng có những cái tình yêu hấp dẫn. Năm 1940, chưa ra tập “Lửa thiêng”, nhưng báo Ngày nay liên tục đăng thơ tôi. Thế là tôi liên tiếp nhận được thư của một người không ký tên, nhưng trời ơi! Thư viết hay lắm, mê lắm, xúc động lắm! Mà tôi tiếc là tập thư ấy cháy mất trong kháng chiến, tôi để nó trong một cái hòm ở Hương Khê, nhà bị cháy nên cháy luôn, tôi tiếc ngơ tiếc ngẩn. Cô này có trình độ văn hóa, có cả trình độ văn học nữa, mà không ký tên. Có cái lạ là, tôi đi đến đâu thì thư đi đến đấy. Tôi đi nghỉ ở Đồ Sơn với Khái Hưng, Nhất Linh, Thế Lữ, không biết lần mò địa chỉ thế nào mà thư đến kịp gặp tôi ở Đồ Sơn. Tôi học Trường Canh nông chủ yếu là ở Hà Nội, nhưng cũng có mấy tháng học ở Sài Gòn, thư cũng đến Sài Gòn. Lạ quá! Cái cô này, cô theo dõi mình một cách kinh khủng. Thư viết xúc động lắm!
Chả lẽ sau này lại không gặp được nhau nữa?
- Cứ để tôi nói cho các anh nghe. Cái người viết ấy chữ không khác gì như chữ con trai, nhưng lời lại như lời con gái. Có một hôm, mùa đông năm 1940, tôi sắp sửa xách xe đạp đi học (Trường Canh nông hồi ấy ở Bách thảo, gần Lăng Bác Hồ bây giờ) thì có một cái bưu phẩm đến. Mình mở ra. Trời ơi! Một cái áo trắng rất đẹp. Đằng sau cổ thêu một câu thơ của tôi: “Hồn nhớ thương em dệt áo dâng anh”; câu ở trong bài Tình tự. Nhưng mà mình mở ra thì mặc không vừa, dù mình chưa béo như bây giờ... Thì mình cũng chả trách vì đã bao giờ người ta ôm mình đâu, mà mình cũng đã ôm người ta đâu mà biết vừa hay không (cười). Thành ra, áo thì rất đẹp nhưng phải gói lại cho vào hòm rồi lại xách xe đạp đi. Hôm ấy trời rét nhưng mình cảm thấy ấm vô cùng.
Sau đó mấy tuần, bấy giờ tôi ở ngõ Tân Hưng, nay là ngõ Tức Mạc, anh em ở chung khoảng 10 người, thì có một cô tự nhiên đến, mặc cái áo trắng rất đẹp, các ông ạ. Cái áo trắng bằng lụa Hà Đông. Cô ấy nói chuyện với tất cả mọi người nhưng mà phân biệt đối xử đối với tôi. Thế thì mình cũng đủ thông minh và đủ linh tính, thôi, chắc người này viết thư cho mình rồi. Cô ấy là sinh viên Đại học Y, học sau tôi một lớp, thua tôi một tuổi. Hết buổi nói chuyện, cô dắt xe đạp ra về, thì tự nhiên cái chân tôi đi theo. Tôi xin nói là cái chân tôi đi theo chứ không phải là tôi đi theo (cười). Ra đến cửa ngõ, tự nhiên cô ấy dừng lại. Lúc bấy giờ, cô nói như thế này: “Anh có nhận đủ thư em không?”. Tôi bảo: “Có!”. Thế là cô lên xe cô ấy đi, không kịp nói câu gì nữa.
Cách đó mấy hôm, tôi nhận được một cái thư viết như một chỉ thị: “Chủ nhật tới, anh đến gặp em”. Thế là mình ngoan ngoãn nghe thôi. Hẹn 9 giờ, 9 giờ kém 10, mình đến đã thấy cô ấy cũng đứng ở trước Trường Thú y, trên đường Bạch Mai. Bây giờ gọi nhau thế nào? Tiếng Việt Nam tài lắm, mình định gọi em nhưng mà chưa đủ tình cảm để gọi em, gọi nàng thì “Tự lực Văn đoàn” quá (cười), gọi cô thì lại khách sáo. Không cô, không nàng, không em thì phải làm thế nào? Thế là hỏi một câu không có chủ từ: “Đi đâu bây giờ?”. Nhưng cô rất chủ động: “Anh đi theo em”. Thế là cô ấy lên xe đạp. Chỗ nào đường đông thì cô đi trước, mình lẽo đẽo theo sau; chỗ nào đường hơi rộng thì đi song song. Từ đó đi vào Thanh Xuân, trên đường vào Hà Đông thì dắt qua bờ ruộng đi vào một cái khóm cây, một cái rừng nhỏ, có một cái nhà thờ họ đạo nhỏ. Nói chuyện với nhau trên trời dưới đất, không đả động đến tình yêu. Gặp nhau lúc 9 giờ, đi đến nơi 10 giờ, từ 10 giờ đến 12 giờ không nói đến tình yêu. Trước khi đi, cô ấy có chuẩn bị bánh mỳ xúc xích đi theo. Đến 12 giờ, thì chuông nhà thờ đổ. Tôi nghe chuông nhà thờ đổ, tôi cũng xúc động đấy nhé, mà chuông chùa cũng thế! Lúc ấy cô ấy hỏi: “Anh có thuộc bài hát Cinema không?”. Tôi bảo tôi có thuộc, để tôi hát cho cô nghe, cô ấy bảo để em hát trước. Một bài hát rất hợp cảnh với chúng ta, một cái bài hát trong đó có một thôn nhỏ, một cái nhà thờ nhỏ, một buổi sớm mùa xuân. Cô ấy hát xong thì khóc nức nở... (Huy Cận hát: “Tình yêu ơi, ta thấy mặt em trong một sáng mùa xuân...
Tình yêu ơi, ta được thấy mặt em và cả lòng phản bội của ta...”). Lúc bấy giờ thì tôi nói thật là chưa đủ tình cảm, thế nhưng người ta hát vì mình, người ta xúc động vì mình! Tôi ôm cô ấy, xúc động, một hồi lâu. Rồi khi cô ấy hết khóc thì lại nói chuyện trên trời dưới đất, không đả động đến tình yêu, rất lạ! Trong một hoàn cảnh như thế, tôi nói anh em thanh niên bây giờ các cậu không trong sáng bằng bọn tôi đâu. Chúng tôi lãng mạn nhưng rất trong sáng. Bây giờ chỉ 5 phút các cậu giải quyết hết! (Cười). Bọn tôi ngồi cả buổi sáng, đến 6 giờ chiều về mà vẫn chỉ êm ru thế thôi!
Nhưng lớp trẻ bây giờ không có được khu rừng nhỏ với tiếng chuông nhà thờ như của ông. Bây giờ rừng nhỏ hết rồi, toàn là đường sá với nhà nghỉ thôi. Còn đâu được sự trong sáng lãng mạn nữa!
- Không đi ra giữa thiên nhiên, các cậu không hiểu hết được sự kỳ vĩ của tình yêu đâu. Đã yêu nhau bao giờ cũng phải đi ra giữa thiên nhiên, bởi vì chỉ có kích thước của vũ trụ mới đo nổi nỗi xúc động của tình yêu. Đó là quy luật mà tôi khám phá ra. Chỉ có kích thước của vũ trụ mới đo nổi cái bề rộng, bề dài của rung động tình yêu. Các anh cũng đi ra giữa thiên nhiên thôi, các anh giấu tôi làm gì! (Cười). Tình yêu mà chỉ ngồi trong phòng thì không đủ, có đúng không? Buổi chiều về, về theo đường Tàu Bay, hồi ấy không có đèn đường mà chỉ có đèn dinamo. Cô ấy mua hai thẻ hương, cô ấy cầm một, tôi cầm một trên tay để người ta đỡ đâm vào mình. Về đến chỗ Trường Thú y thì dừng lại, cô ấy gục vào vai tôi giục: “Thôi anh về!”. Tôi khóc. Buổi trưa cô ấy khóc, buổi chiều mình khóc. Tôi khóc thật, khóc nức nở...
Từ phải qua: Huy Cận, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi.
“Chàng Huy Cận khi xưa hay buồn lắm”...
- Không, không... Tại sao tôi khóc? Tại vì tôi thấy mối tình đẹp quá, cái tâm hồn đẹp quá, vậy nên tôi khóc. Cô ấy bảo: “Thôi, anh về!”. Anh thấy cái tình lạ không? Sau này, tôi đi hoạt động ở Paris nhiều lần, người ta cho tôi biết địa chỉ, telephone của một phòng mạch ở miền Nam nước Pháp, đông khách mà cô ấy làm chủ. Tôi không lại. Tại sao? Tại vì tình ngày xưa nó đẹp như thế, bây giờ thì hai ông bà già hết rồi, con đàn cháu đống (cười)... Thôi cứ để êm đi cái quá khứ. Nhưng cô ấy thỉnh thoảng có viết thư về cho một người bà con ở Hà Nội, bác sĩ Đặng Hiếu Chương. Anh Đặng Hiếu Chương bảo tôi, chị ấy vẫn hỏi thăm anh đấy. Bây giờ thì tôi tiết lộ được rồi. Cô ấy là người Bình Định...
Cô ấy có đẹp không?
- Tôi nói rất công bằng. Cô ấy không xấu, không đẹp, nhưng mà xinh, có một cái duyên. Đẹp khác, xinh khác, nhưng cô ấy có một tâm hồn làm cho mình mê...
Lâu hơn, dai dẳng hơn, sâu sắc hơn?
- Sâu sắc á? Nhưng đó chỉ là một trong những cái tình. Kháng chiến rồi thành ra dở dang. Về sau gặp nhau lại chỉ khóc thôi...
Ông có phải là một người đa tình không?
- Anh đánh giá như thế nào thì đánh giá, nhưng qua cuộc đời thì tôi cảm thấy tôi đa tình. Đam mê...