Hiện hữu trên dương gian chỉ vỏn vẹn 24 năm, nhưng nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp lóng lánh như một ngôi sao trên bầu trời thi ca. Ông được ghi danh trong "Thi nhân Việt Nam" từ thế kỷ trước.
Chập chững lên 2 tuổi thì thân mẫu chết, Nguyễn Nhược Pháp được mẹ cả (Đinh Thị Tính) đón về nuôi như con đẻ của mình. Suốt 22 năm (1916- 1938), Nguyễn Nhược Pháp đều sống với những người anh em cùng cha khác mẹ, trong một đại gia đình nhiều kỷ niệm sâu sắc.
Người viết bài này may mắn được bà Nguyễn Phương Mỹ (cháu ruột học giả Nguyễn Văn Vĩnh - thân phụ Nguyễn Nhược Pháp) tặng một tập tài liệu viết tay của gia đình, nhân kỷ niệm 80 năm Ngày sinh Nguyễn Nhược Pháp (1914-1994).
Đọc những trang hồi ức càng thấy trân trọng con người có nhiều phẩm chất cao quý, người xưa bảo: Gai nhọn từ lúc còn non. Vào những năm 1923, gia đình ông Nguyễn Văn Vĩnh đã chuyển từ phố Mã Mây về phố Thụy Khuê, trước trường Bưởi (trường Chu Văn An bây giờ). Đây là khuôn đất rộng, ông Vĩnh sửa lại thành các khu nhà có nhiều phòng để ở và những tiện nghi sinh hoạt. Nhà đông người nhiều con, lại thêm bạn các con ở tỉnh lẻ về ở nhờ để tiện bề ăn học… mà vẫn rất thoải mái.
Bấy giờ 2 người con lớn ông Vĩnh đang học ở nước ngoài. 3 người con gái là Nguyễn Thị Loan, Nguyễn Thị Nội, Nguyễn Thị Vân đã lớn, được ở khu nhà với bà Vĩnh. Còn Nguyễn Nhược Pháp được ở chung với 7 anh chị em còn nhỏ tuổi ở khu nhà ngang. Buổi sáng hàng ngày, Nhược Pháp cùng anh chị em học chữ Nho, khoảng nửa giờ do ông tú tài Phùng Năng Tĩnh người Bát Tràng làm gia sư, dạy dỗ. Rồi họ đạp xe đi học các trường tư.
Trong số 7 anh em, Nguyễn Nhược Pháp thông minh, đẹp trai, học giỏi có đầu óc tổ chức, nhiều sáng kiến, làm đầu tàu cho các em trong mọi hoạt động, sinh hoạt thể thao, vui chơi. Mặc dù Nhược Pháp là con bà bé, nhưng luôn được mọi người tôn trọng.
Nhược Pháp có sáng kiến đã lập ra một quy định nội bộ "Cấm nói nhảm nhí". Cậu soạn ra khoảng 50 câu thông dụng hàng ngày mọi người cần tránh, ví như những từ ngữ như: Đếch, bỏ mẹ, bỏ xừ…, hoặc những câu chửi thề không ai được nói… Ai lỡ lời, người nào nghe thấy, có quyền cốc vào đầu, véo tai, coi như một hình thức phạt. Nhược Pháp bày trò tập bơi. Khi thì hồ Tây, khi thì ra ao đình làng Thụy Khuê, lúc đến hồ Trúc Bạch. 7 anh em đều biết bơi kể cả con gái. Nhược Pháp yêu môn bơi lội nhất.
Cho tới những ngày mới bị bệnh, anh vẫn đi bơi. Ngày chủ nhật, Nhược Pháp tổ chức đua xe quanh Hồ Tây, có đặt giải thưởng, thu hút các bạn học cùng tham gia. Lại tổ chức trượt pa tanh. Ban đầu chơi trên đường Hoàng Hoa Thám, sau đường đua dài đến tận Quần Ngựa, vòng trở về lối Thụy Khuê… Rồi tổ chức tham quan du lịch bằng xe đạp, quanh hồ Tây, rồi quanh Hà Nội và đi xa hơn. Mỗi tuần, ông Vĩnh thường cho các con tiền đi xem chiếu bóng. Nhược Pháp rủ rê mấy anh chị lớn hơn, để dành tiền ấy, làm vốn in báo Tuổi cười. Nhược Pháp làm chủ nhiệm, Nguyễn Phổ (sinh năm 1917) làm chủ bút, Nguyễn Kỳ (sinh năm 1918) quản lý nhà in. Báo in thạch, hai màu đỏ và tím. Mỗi tháng một số, có 16 trang, khổ 15 x 20 cm.
Nội dung tờ báo là thông báo những tin tức gia đình, nêu tên ai học giỏi, phê phán những việc xấu. Lại có trang thể thao, biểu dương kỷ lục mới (trong gia đình), có quảng cáo các buổi diễn kịch, diễn xiếc do anh chị em tổ chức trong nhà. Trang cuối có in thơ của Nhược Pháp sáng tác. Mỗi số ra 10 tờ, bán 5 xu cho người lớn và các anh chị lớn. Báo phát hành được mấy năm. Sau này lớn lên, Nhược Pháp đã chọn những bài thơ trong báo Tuổi Cười, thành tập thơ "Ngày Xanh". Nhược Pháp còn tổ chức một đội kịch gia đình, mà chính anh viết kịch bản và đạo diễn. Các anh chị em làm diễn viên.
Vốn là người làm báo chuyên nghiệp, nên nhà ông Nguyễn Văn Vĩnh có xưởng in rộng. Họ kê bàn ghế thành sân khấu, tạm dùng câu đối nhà thờ trang trí, lại làm phông màn, chăng điện sáng…nghĩa là như sân khấu thật. Có bán vé hẳn hoi. Giá vé 5 xu một chỗ ngồi. Những người lớn trong nhà cũng mua vé và ngồi xem cốt để cổ vũ con em mình. Có buổi ông Vĩnh cũng ngồi xem các con diễn, ông thấy lòng tràn ngập niềm vui. Nhược Pháp còn hướng dẫn thành lập đội xiếc, phân vai diễn. Người diễn xiếc xe đạp, người làm ảo thuật, người dạy thú, người thổi kèn. Anh còn tổ chức đội chiếu bóng BaBy.
Năm 1922 ông Vĩnh sang pháp và Đức nghiên cứu thị trường, ông đã mua cho các con những đồ chơi có tính khoa học, trong đó có máy chiếu phim. Thế là cả các bạn học và cả nhà cùng đến xem. Hơn 10 năm, thời tuổi thơ, họ sống với nhau thật thoải mái và yên vui. Nhược Pháp sau này lớn lên mới biết mình chỉ là người con cùng cha với các em, còn mẹ của cậu đã mất từ năm 1916 khi cậu mới 2 tuổi.
Nguyễn Nhược Pháp có những thú vui giản dị, không giống bất cứ một thiếu gia nào thời bấy giờ. Anh chăm chỉ học hành, yêu quý mọi người, và biết tự lập. Viết xong một bài thơ, một truyện ngắn, vở kịch… khi có tiền nhuận bút thì rủ một hai em, hay vài bạn bè đi ăn phở xách “Nghi Xuân bang thất” ở phố Hàng Đàn, giá 5 xu một bát. Anh đã viết được một số vở kịch, và có một ước mơ, là cùng với Phạm Huy Thông, bạn học thời ở Trung học Albert Saraut, tri kỷ văn chương, cùng nhau tổ chức một Đoàn kịch không chuyên, đưa lên sân khấu vở kịch “Người học vẽ" của mình.
Nhược Pháp như một trang giấy trắng thơm, một bông hoa thanh khiết. Vào những năm cuối đời, trái tim chàng thi sĩ, tác giả bài thơ “Chùa Hương” đã xốn xang trước một cô gái áo đen, phố Hàng Đẫy, nhưng chưa một lời tỏ tình. Đó là một tiểu thư, một trong tứ mỹ Hà thành bấy giờ. Hàng ngày đạp xe qua nhà, đứng bên này đường nhìn vào vườn nhà em, ngắm nhìn bóng em thấp thoáng. Rồi hình ảnh cô gái áo đen trong vườn của nhà họ Đỗ ở phố Hàng Đẫy cứ lung linh mãi trong tim Nhược Pháp, cho đến khi anh từ giã cõi đời…
Nhược Pháp chưa tường mặt thân mẫu của mình, nhưng được mẹ cả hết lòng yêu thương, như con đẻ. Trước khi về cõi vĩnh hằng, bà dặn lại người thân “Hãy đặt tôi nằm bên cạnh Nhược Pháp”.
Nguyễn Nhược Pháp là con người đầy ý chí, ngay cả đến khi nhuốm bệnh vẫn không ngừng vươn lên vượt qua số mệnh. Từ 2 tuổi Nhược pháp sống với mẹ cả đi học vỡ lòng. 6 năm tiếp theo học phổ thông trường Trí Tri (phố Hàng Đàn và Trung Bắc học hiệu (phố Lý Quốc Sư). Năm 14 tuổi thi đỗ lớp 6 Trường Trung học Albert Saraut. Khi 20 tuổi đỗ tú tài phần nhất, 21 tuổi (1935) đỗ tú tài phần hai, vào Đại học Luật. Nhược Pháp luôn học giỏi, xứng đáng cho các em noi theo.
Từ năm 1930 trở đi, kinh tế gia đình ông Vĩnh bắt đầu khó khăn trầm trọng. Nguyễn Nhược Pháp vừa đi học để thi tú tài, thi đại học Luật, vừa làm ở tòa báo An Nam mới để có tiền nhuận bút phụ giúp gia đình… Từ sau khi trong nhà có chuyện buồn liên tiếp mấy năm, chị Nội, chị Vân rồi cha mất, Nhược Pháp buồn đau, nhuốm bệnh lao hạch…
Ngày 19/11/1938 anh trút hơi thở cuối cùng tại Bệnh viện Đồn Thủy, hưởng dương 24 tuổi. Anh để lại 3 bức thư. Một bức viết bằng chữ Pháp, cảm ơn các thầy thuốc, hộ lý đã hết lòng cứu chữa mình. Một bức thư vĩnh biệt mẹ cả và gia đình (khi ấy ông Vĩnh mất được hai năm)
Một bức gửi cho người anh là nhà thơ Nguyễn Giang (người được ghi danh trong "Thi nhân Việt Nam"), rằng hãy chăm sóc mẹ cả và các em tốt hơn.
Ban đầu, thi hài Nhược Pháp được mai táng ở nghĩa trang Hợp Thiện, Quỳnh Lôi, Mai Động, Hà Nội. Năm 2010 trong lần quy tập các ngôi mộ Nguyễn tộc ở Phượng Dực, con cháu đã đặt mộ Nguyễn Nhược Pháp nằm cạnh mẹ cả Đinh Thị Tính, để thỏa nguyện lời trăng trối của bà.