Sắc phong là văn bản truyền mệnh lệnh của vua phong chức tước cho quý tộc, quan chức, khen thưởng những người có công hoặc phong thần và xếp hạng cho các vị thần được thờ trong các đình đền trong tín ngưỡng làng xã của người Việt. Văn kiện sắc phong thường làm bằng loại vải hay giấy đặc biệt. Tuy vậy, nhiều địa phương vẫn còn bảo lưu được số lượng sắc phong tương đối lớn. Bắc Ninh là tỉnh hiện còn giữ được nhiều sắc phong cổ.
1. Theo nhà văn hóa Hữu Ngọc- Chủ tịch Quỹ Thụy Ðiển - Việt Nam phát triển văn hóa, nơi có sáng kiến và tài trợ cho dự án bảo tồn sắc phong cổ, sắc phong bao gồm sắc phong chức tước cho quý tộc, quan chức của các vương triều và sắc phong thần do nhà vua phong tặng cho các vị thần được thờ ở trong đình, đền, miếu, từ đường...
Sắc phong ghi lại tên tuổi và công lao của một số nhân vật lịch sử kèm theo quê quán, công tích và xếp hạng. Sắc phong phản ánh hệ thống hành chính với những địa danh và đơn vị hành chính mang niên đại cụ thể. Sắc phong thể hiện vai trò tối thượng của nhà vua trong việc trị vì muôn dân và cai quản cả thế giới thần linh, kết hợp với các tín ngưỡng và đời sống tâm linh, có quan hệ mật thiết với các lễ hội dân gian và sinh hoạt văn hóa của làng, xã.
“Nghiên cứu sắc phong giúp chúng ta hiểu biết về địa lý, lịch sử, văn hóa dân gian. Sắc phong cũng thể hiện đặc trưng của thư pháp Hán Nôm và sự biến đổi qua các thời kỳ lịch sử. Ðồng thời một nét quan trọng khác là giấy sắc. Ðây là một sản phẩm đặc biệt của nghề làm giấy truyền thống đến nay hầu như đã mai một. Bảo tồn giấy sắc là một cách bảo tồn chứng tích của nghề thủ công truyền thống này” - nhà văn hóa Hữu Ngọc nói.
Theo các nhà nghiên cứu, giấy phong cho bách thần cũng có 3 hạng, trong đó, Thượng đẳng thần xung quanh in triện hoa chanh, phía trước vẽ một con rồng, ở giữa in hình Ngũ tinh, 4 góc in hình Thất tinh, mặt sau vẽ hình Tứ linh; trung đẳng thần mặt trước giống như sắc Thượng đẳng thần, mặt sau vẽ Lá và Bầu rượu, giữa vẽ hai chữ Thọ liền nhau, gọi là song thọ; hạ đẳng thần mặt trước giống như hai hạng trên, mặt sau không vẽ.
2. Thông tin tại hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di sản sắc phong trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh mới đây cho thấy, qua khảo sát sơ bộ, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện còn lưu giữ được khoảng hơn 2.189 đạo sắc phong. Trong đó, thành phố Bắc Ninh có 318 đạo, thị xã Từ Sơn có 292 đạo, Tiên Du có 95 đạo sắc phong, Gia Bình có 233 đạo sắc phong, Lương Tài là 290 đạo sắc phong, Quế Võ có 127 đạo sắc phong, Yên Phong có 454 và Thuận Thành đang lưu giữ 380 đạo sắc phong. Trên thực tế, trong nhiều làng xã, gia đình, nhà thờ họ vẫn còn đang cất giữ sắc phong nhưng chưa được điều tra nên số lượng có thể còn cao hơn.
Về giá trị của sắc phong, theo giới chuyên môn đánh giá là thể hiện rõ rệt dấu ấn uy quyền của các vị vua, có tính độc bản vì đạo sắc nào cũng chỉ có một bản. Hơn nữa, niên đại ghi ở cuối văn bản gồm triều vua và ngày tháng ban sắc là thông tin tuyệt đối chính xác làm căn cứ để người đời sau có thể hiểu về phong cách mỹ thuật, thư thể của từng thời kỳ lịch sử. Ngoài ra, sắc phong được viết trên chất liệu giấy quý vừa đẹp vừa có độ bền cao. Loại giấy này được làm tại làng Nghè (tức làng Nghĩa Đô, Từ Liêm, Hà Nội) rất quý vì nguyên liệu dùng để vẽ lên bề mặt giấy là vàng, bạc, kim nhũ và được sản xuất bằng kỹ thuật seo giấy cổ truyền đặc biệt công phu, chuyên cung cấp cho triều đình sử dụng.
Sắc phong ở Bắc Ninh có 2 dạng chính. Loại thứ nhất dùng để phong cấp, ban chức tước cho công thần, quan chức. Đối với các gia đình, dòng họ thì sắc phong được xem là gia bảo do trưởng tộc hoặc những người có uy tín cất giữ bảo quản. Loại sắc phong này không có nhiều ở Bắc Ninh. Loại thứ hai, sắc phong thần cho các vị Thành hoàng làng (có thể là nhiên thần hoặc nhân thần) là tài sản chung của cả cộng đồng làng xã nên thường được cất giữ tại các đình, đền, miếu, phủ… Loại sắc phong này còn được bảo lưu khá nhiều ở các làng, xã trong tỉnh.
Các nhà nghiên cứu xác định, đạo sắc gốc có niên đại sớm nhất và muộn nhất tỉnh Bắc Ninh đều ở thị xã Từ Sơn. Đó là, đạo sắc có niên hiệu Đức Long (1634) ở đình làng Hồi Quan, xã Tương Giang là sắc sớm nhất, còn sắc phong có niên đại muộn nhất phong thời Nguyễn, niên hiệu Bảo Đại 8 (1932) ở đền Đầm khu phố Phù Lưu, phường Đông Ngàn.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Khải phân tích: Sắc phong bao giờ cũng chỉ được viết trên một mặt của tờ sắc với nội dung chỉ có khoảng hơn 100 chữ ghi về địa chỉ nơi được ban sắc phong, lý do được ban sắc, hệ thống mỹ tự ban cho Thành hoàng, đẳng cấp của Thành hoàng, niên hiệu và đóng quốc ấn. Hình thức sao chép phổ biến nhất là ghi chép trên giấy dó, giấy bản hoặc chạm khắc vào bia đá, bảng gỗ, kim loại… Việc cất giữ, bảo quản, phát huy loại tài liệu linh thiêng này mỗi nơi có những quy định riêng.