Từ năm 2008, Nhà nước đã có chính sách khuyến khích người dân trồng rừng sản xuất gỗ lớn theo Quyết định 147/2007/QĐ-TTg nhằm tăng thu nhập cho người làm nghề rừng, đặc biệt là bà con đồng bào vùng cao, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường, sinh thái. Tuy nhiên sau 10 năm triển khai chính sách này vẫn chưa thực sự được người dân vùng cao hưởng ứng.
Thiếu vốn, thiếu đất nên người dân thờ ơ với chủ trương phát triển trồng cây gỗ lớn.
Người dân không hào hứng
Trồng rừng không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cao hơn cho các hộ gia đình mà còn tăng độ che phủ, bảo vệ môi trường, giữ đất chống xói mòn, giữ nước ngầm ở vùng đồi núi. Hiệu quả của rừng gỗ lớn so với rừng gỗ nhỏ đã được khẳng định song đến nay việc triển khai ở các địa phương không dễ.
Tại Nghệ An trồng rừng là nghề chủ lực của tỉnh nhưng theo thống kê trong trên 160.000 ha rừng nguyên liệu, diện tích rừng gỗ lớn có khoảng trên 4.000 ha, tập trung ở một số huyện Nghĩa Đàn - Con Cuông, Tương Dương...Theo Sở NN&PTNT tỉnh Nghệ An việc trồng rừng gỗ lớn đang còn khó khăn bởi đòi hỏi thời gian chăm sóc, bảo vệ dài tối thiểu gấp đôi trồng rừng gỗ nhỏ, dẫn đến quá trình được khai thác, thu hồi vốn đầu tư lâu, trong khi đó điều kiện người dân còn rất khó khăn, nhu cầu cuộc sống luôn cần tiền để trang trải.
Bên cạnh đó, việc vay vốn để đầu tư trồng mới rừng gỗ lớn không hề dễ dàng. Mặc dù Nhà nước có những chế tài, chính sách tín dụng để phát triển lâm nghiệp, tuy nhiên thực tế các ngân hàng thường ngại cho vay về lĩnh vực này vì rủi ro cao, thời gian trả nợ kéo dài. Đây thực sự là một khó khăn lớn đối với người trồng.
Tương tự tại Quảng Nam dù Quyết định 147 được xem là chính sách đầu tiên khuyến khích người dân trồng rừng sản xuất gỗ lớn, nhưng 10 năm qua các huyện miền núi trong tỉnh vẫn chưa hào hứng thực hiện. Nguyên nhân theo Nghị định số 75/2011/NĐ-CP quy định danh mục các dự án được vay tín dụng đầu tư của Nhà nước không đề cập các dự án liên quan đến lâm nghiệp.
Văn bản này quy định chỉ có tổ chức, doanh nghiệp mới được vay tín dụng đầu tư. Về tín dụng xuất khẩu, nghị định cũng quy định sản phẩm hàng mây tre đan, đồ gỗ xuất khẩu thuộc danh mục mặt hàng được vay vốn tín dụng xuất khẩu, còn các hoạt động chế biến lâm sản khác và trồng rừng gỗ lớn không thuộc danh mục các dự án được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước. Đây chính là rào cản khiến người dân không mấy mặn mà với chủ trương trồng gỗ lớn.
Phản ánh từ nhiều địa phương cũng cho thấy, quy hoạch quỹ đất để trồng rừng sản xuất còn khá hạn chế, manh mún, thậm chí đan xen giữa các chủ rừng nhà nước và hộ gia đình cũng như giữa các loại rừng với nhau. Điểm bất lợi thứ hai là trồng rừng gỗ lớn có chu kỳ kinh doanh dài trong khi thủ tục vay vốn từ các ngân hàng còn khó khăn, thời gian cho vay ngắn, khó tiếp cận, do đó, các doanh nghiệp và hộ gia đình thường trồng rừng gỗ nhỏ để xoay vòng vốn nhanh.
Khó khăn tiếp theo là vấn đề cơ sở hạ tầng lâm nghiệp và quản lý giống. Hiện Việt Nam chưa xây dựng được các vùng cung cấp nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến gỗ cũng như hệ thống đường lâm nghiệp và các cơ sở hạ tầng khác phục vụ cho các vùng chuyên canh trồng rừng.
Nâng mức hỗ trợ cho vay
Để khuyến khích người dân trồng rừng gỗ lớn Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhưng đến nay những chính sách ấy đã bộc lộ bất cập khiến người dân khó tiếp cận được.
Đơn cử như theo Điều 5 Quyết định 147 quy định điều kiện nhận hỗ trợ đầu tư trồng rừng là “đối với chủ rừng thì phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đối với doanh nghiệp nhà nước phải là đất trồng rừng sản xuất đã được giao khoán cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng ổn định lâu dài (50 năm)” – điều này khiến các hộ rất khó tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ. Thêm vào đó, mức hỗ trợ 3 triệu đồng/ha cho trồng rừng gỗ lớn và 2 triệu đồng/ha cho trồng rừng gỗ nhỏ là quá thấp, thủ tục phức tạp nên không hấp dẫn các hộ gia đình.
Năm 2011, Chính phủ ban hành Quyết định số 66/2011/QĐ-TTg về sửa đổi, bổ sung Quyết định 147/2007/QĐ-TTg theo hướng nâng mức hỗ trợ trồng rừng gỗ lớn lên 4,5 triệu đồng/ha. Riêng với các hộ gia đình thuộc 63 huyện nghèo, mức hỗ trợ được nâng từ 5 triệu đến 10 triệu đồng/hà (theo Quyết định số 2621/QĐ-TTg ngày 31/12/2012).
Đặc biệt theo Quyết định 38/2016/QĐ-TTg - Bảo vệ, phát triên rừng và hớ trợ kết cấu hạ tầng các công ty nông, lâm nghiệp đã nâng mức hỗ trợ lên 8 triệu đồng/há chộ hộ gia đình trồng các loài cây sản xuất gỗ lớn (khai thác sau 10 năm tuội) tuy nhiên những định mức này cũng chưa thực sự khuyến khích người dân trồng rừng gỗ lớn.
Theo đơn giá trồng rừng hiện nay (ở khu vực khó khăn trung bình), các hộ phải bỏ ra tổng chi phí 25 – 30 triệu đồng/ha/7 năm (đối với cây chu kỳ kinh doanh ngắn), bao gồm: chi phí chuẩn bị trồng rừng, giống, phân bón, nhân công, tiền chăm sóc cho 3 năm đầu, tiền bảo vệ rừng cho các năm tiếp theo đến khi khai thác.
Đối với khu vực khó khăn như vùng dân tộc, miền núi, chi phí trồng rừng còn cao hơn rất nhiều. Do đó, phần kinh phí còn thiếu để trồng rừng, các hộ gia đình phải đi vay để bù vào, mặc dù được vay ưu đãi, song khoản chi phí này vẫn là gánh nặng cho các hộ nghèo, đặc biệt đối với các hộ trồng rừng có chu kỳ kinh doanh dài với nhiều rủi ro.
Để thu hút người dân, đặc biệt người dân tộc thiểu số trồng rừng gỗ lớn, đại diện Ban Dân tộc HĐND tỉnh Quảng Nam cho rằng, cần sửa đổi các chính sách hiện hành về vay vốn tín dụng ưu đãi theo hướng tạo điều kiện thuận tiện cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân vay vốn đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn. Nhà nước chỉ hỗ trợ kinh phí cho giống, khuyến lâm, phát triển hạ tầng vùng lâm sinh, chuyển sang hình thức cho vay ưu đãi để trồng rừng gỗ lớn chứ không nên hỗ trợ vốn cho không để trồng rừng sản xuất.
Đồng tình ý kiến nhiều địa phương cũng cho rằng, cần sửa đổi các chính sách hiện hành về vay vốn tín dụng ưu đãi, thuận tiện cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân vay vốn đầu tư trồng rừng sản xuất gỗ lớn. Ngoài việc hỗ trợ kinh phí cho giống, khuyến lâm và cơ sở hạ tầng, không nên hỗ trợ vốn cho không để trồng rừng sản xuất mà nên chuyển sang hình thức cho vay ưu đãi để trồng rừng gỗ lớn.