Dịch bệnh Covid-19 đang đẩy nhanh quá trình tự động hóa trong lĩnh vực logistics và sẽ trở thành xu hướng chính trong thời gian tới. Lý do, đi chợ trực tuyến tăng cao và nhu cầu bảo quản vắc xin Covid-19 cũng như các loại vắc xin khác đang rất cần. Tuy nhiên, điểm yếu của hoạt động này chính là thiếu trầm trọng kho lạnh để trữ và bảo quản hàng hóa.
Kho lạnh phải hoạt động công suất tối đa
Công ty nghiên cứu Forrester dự báo dịch vụ đi chợ trực tuyến tại châu Á Thái Bình Dương sẽ tăng 30% mỗi năm cho đến năm 2024, tăng gấp đôi thị phần trực tuyến lên 10,6%. Ông Michael Ignatiadis, Giám đốc Chuỗi cung ứng và Hậu cần, JLL châu Á Thái Bình Dương cũng cho biết. “Tỷ lệ dân số và tầng lớp trung lưu tăng nhanh tại châu Á làm tăng nhu cầu mua thực phẩm tươi ngon. Đây là nguyên nhân chính thúc đẩy nhu cầu về kho lạnh”.
Tại Việt Nam, điển hình là lĩnh vực xuất khẩu thủy sản (lớn thứ ba trên thế giới) và ngành này cần và chiếm nhiều diện tích kho lạnh nhất. Theo các chuyên gia, trong thời kỳ cao điểm của đại dịch, 30% đến 50% đơn đặt hàng xuất khẩu thủy sản đã bị hủy dẫn đến hàng tồn kho leo thang và các kho lạnh phải hoạt động công suất tối đa. Tuy nhiên, nguồn cung kho lạnh chủ yếu tập trung ở khu vực phía Nam do nhu cầu lớn. Trong đó, khoảng 60% thị phần được nắm giữ bởi các nhà đầu tư nước ngoài.
Kho lạnh thương mại đầu tiên được xây dựng năm 1996 bởi Konoike Vinatrans, một liên doanh giữa Nhật Bản và Việt Nam. Tới năm 1998, Swire Cold Storge của Úc xây dựng một trong những kho lạnh hiện đại nhất thời bấy giờ. Năm 2007, Công ty Cổ phần Hùng Vương xây dựng hai kho lạnh với tổng sức chứa là 40.000 tấn hàng. Những doanh nghiệp khác có thể kể đến Lotte Sea, Preferred Freezer Services.
Các nhà đầu tư cả trong nước lẫn quốc tế nhắm đến mảng chuỗi lạnh từ lâu. Trong đó, nhà đầu tư đang cần nhiều kho lạnh có vị trí gần khách hàng hơn để phục vụ nhu cầu ngày càng tăng cho loại sản phẩm nhạy cảm với nhiệt độ như mỹ phẩm, thực phẩm, dược phẩm,.... Nhưng động lực thúc đẩy ngành kho vận lạnh không chỉ có vậy mà còn là sản phẩm chăm sóc sức khoẻ đặc biệt. Nổi bật nhất chính là vắc xin Covid-19 và các loại vắc xin khác trong tương lai. “
Tình hình dịch bệnh Covid-19 đang đẩy nhanh quá trình tự động hóa trong lĩnh vực logistics và sẽ trở thành xu hướng chính trong thời gian tới. Logistics đa phương thức và chuỗi lạnh dành cho các sản phẩm nhạy nhiệt như thực phẩm, mỹ phẩm hay vắc xin sẽ là sản phẩm hấp dẫn các nhà đầu tư rót tiền xây dựng, bà Trang Bùi - Giám đốc Cấp cao Thị trường Việt Nam của JLL nhận định.
Cơ hội đầu tư kho lạnh
Theo Prnewswire1, thị trường chuỗi lạnh toàn cầu được định giá 4,7 tỷ USD vào năm 2019 và dự kiến sẽ đạt mức 8,2 tỷ USD vào năm 2025. Tốc độ tăng trưởng trung bình năm là 12,5% trong giai đoạn 2020-2025. Với sự toàn cầu hóa của các ngành công nghiệp thực phẩm, các công ty hậu cần cũng đang tìm cách mở rộng sang các thị trường mới.
Tính đến thời điểm này chỉ mới có một số ít doanh nghiệp tham gia vào thị trường Việt Nam. Thế nhưng chưa công ty nào cung cấp được chuỗi dịch vụ cung ứng đầy đủ. Công ty tư vấn Emergen cho hay, khối lượng xây dựng kho lạnh được dự đoán sẽ đạt giá trị 18,6 tỷ USD vào năm 2027, tăng 13,8% mỗi năm. “Nhưng ngay cả với tốc độ xây dựng này, tình trạng thiếu kho lạnh có thể vẫn tiếp diễn do nhu cầu lớn về thực phẩm tươi sống,”, ông Ignatiadis cho biết.
Nguồn cung bị hạn chế một phần là do các cơ sở kho lạnh cần nhiều thời gian xây dựng hơn các loại bất động sản hậu cần khác. Việc xây dựng các kho bảo quản lạnh sẽ phức tạp và tốn kém hơn so với các kho tiêu chuẩn. “Chi phí đầu tư kho lạnh cao gấp hai đến ba lần so với nhà kho thông thường và quá trình xây dựng có thể lâu hơn đến sáu tháng. Bên cạnh đó là thời hạn thuê thường kéo dài từ 15 năm đến 20 năm khiến nguồn cung đã khan hiếm càng khan hiếm hơn”, bà Trang Bùi chia sẻ.
Giới chuyên gia nhận định, với chuỗi cung ứng lạnh không tập trung và hầu hết được điều hành bởi các nhà cung cấp vừa và nhỏ, vì vậy các trung tâm kho lạnh là cơ hội đầu tư lớn cho các nhà khai thác tại đây. Tuy nhiên, muốn Việt Nam có thể phát triển logistics công nghiệp, thậm chí đi trước các nước khác cần có điều kiện cần.
Theo đó, cần tiếp tục duy trì mức đầu tư hợp lý vào đầu tư cơ sở hạ tầng, cần chú trọng vào việc phát triển cả hệ thống đường cao tốc và mạng lưới tiện ích, kể cả năng lượng tái tạo. Ngoài ra, quy trình giao thương xuyên biên giới của Việt Nam cần cải thiện đáng kể về thời gian và chi phí. Chi phí giao dịch qua biên giới ở Việt Nam kém cạnh tranh hơn so với hầu hết các nước trong khu vực.