“Chúng ta hội nhập quốc tế thì phải tìm cách để thích nghi. Không nên nghĩ rằng, các quy định nghiêm ngặt về chất lượng, tiêu chuẩn, môi trường lại trở thành rào cản hạn chế cho xuất khẩu. Doanh nghiệp phải xem đây là cơ hội để tự thay đổi, tự lớn lên”. Đó là nhận định của TS. Lê Đăng Doanh- chuyên gia kinh tế khi trao đổi với PV Đại Đoàn Kết.
Ngày 30/6/2019, Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) chính thức ký kết Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA). Đây là hiệp định lớn nhất, cao nhất mà Việt Nam ký với các nước. Sau bước ký kết, hai Hiệp định sẽ phải trải qua quá trình phê chuẩn nội bộ ở EU và Việt Nam để có thể chính thức có hiệu lực với hai bên. Tháng 5 Quốc hội Việt Nam sẽ họp để thông qua. Phía EU cũng có những điều khoản mà 27 Nghị viện thành viên của các nước EU thông qua. Dự tính, khoảng tháng 6 – 7 chúng ta bắt đầu hưởng lợi thế.
TS. Lê Đăng Doanh.
PV:Lợi thế, cơ hội cho hàng hóa vào thị trường EU ở hiệp định này là gì, thưa ông?
TS. Lê Đăng Doanh: Ngay khi Hiệp định chính thức có hiệu lực, xuất khẩu của Việt Nam sẽ tận hưởng được nhiều ưu đãi. EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Sau 7 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đối với khoảng 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại, EU cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%. Có thể nói gần 100% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau một lộ trình ngắn. Lợi ích này đặc biệt có ý nghĩa khi EU liên tục là một trong hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam hiện nay.
Theo ông, ngành nào của Việt Nam có cơ hội nhiều nhất?
- Dự báo, một số sản phẩm như dệt may, da giày, nông hải sản Việt được hưởng lợi nhiều nhất do thuế suất nhập khẩu được đưa về 0%. Đối với mặt hàng nông sản, Việt Nam có lợi thế nông sản nhiệt đới mà EU không sản xuất được. Mặt hàng trái cây như: sầu riêng, xoài,… vào thị trường EU rất thuận lợi. Thủy sản cũng là lợi thế của Việt Nam. Đây chính là lý do mà kim ngạch xuất khẩu nông sản sang EU chiếm đến 15,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam. Ngoài mặt hàng nông lâm thủy sản, ngành dệt may và da giày cũng là một trong những ngành có nhiều lợi thế xuất khẩu khi EVFTA có hiệu lực. Theo tính toán, hàng dệt may đang phải chịu thuế từ 7 - 17%, khi thuế về 0% thì xuất khẩu của Việt Nam vào EU có thể tăng thêm 1,54 tỷ USD năm 2023 và 5,82 tỷ USD năm 2028 (so với khi không có EVFTA).
EVFTA được ký kết trở thành tín hiệu vui cho DN các ngành. Ông có nghĩ rằng, dệt may và da giày có thể đáp ứng đủ những yêu cầu mà phía EU đưa ra hay không?
- Cơ hội dành cho sản phẩm dệt may – da giày ở thị trường EU rất lớn. Thế nhưng, xuất xứ nguyên liệu vẫn là điểm khó đối với các mặt hàng trên. Đối với sản phẩm dệt may, EU đòi hỏi đầu vào phải từ vải phải có hàm lượng tối thiểu của nước xuất khẩu. Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang chỉ thực hiện công đoạn cắt chứ chưa sản xuất nguyên liệu vải và sợi. Dệt may trong nước đang phải nhập đến 80% vải cho may xuất khẩu, 50% từ Trung Quốc, 18% từ Hàn Quốc, 15% từ Đài Loan. Lo ngại lại nằm ở chỗ, thị trường Trung Quốc và thị trường Đài Loan không tham gia các hiệp định thương mại lớn. Điều này có nghĩa nếu duy trì tình trạng trên Việt Nam không tận dụng được ưu đãi về thuế quan.
Như ông chia sẻ, lợi ích và cơ hội cho ngành nông nghiệp, dệt may – da giày là rất lớn, vậy doanh nghiệp cần làm gì đáp ứng yêu cầu trên?
- Đối với ngành dệt may, yêu cầu đặt ra hiện nay, buộc chúng ta phải cải cách, vươn lên và đầu tư vào các sản phẩm dệt để sản xuất ra vải nhằm đáp ứng yêu cầu chứ không thể phụ thuộc nguyên liệu Trung Quốc. Thế nhưng, cái khó hiện nay là nguyên phụ liệu của Trung Quốc bán với giá rất rẻ. Họ bán giá rẻ vì doanh nghiệp được Chính phủ trợ cấp rất lớn. Tôi đã đến thăm DN Trung Quốc cung ứng nguyên liệu ra thị trường thấy rõ chính sách hỗ trợ. DN đầu tư máy móc được Nhà nước trợ cấp 40%. DN mời nhà khoa học về tư vấn chiến lược phát triển được Nhà nước nuôi và trả lương rất hậu.
Với ngành nông nghiệp, DN phải nỗ lực nâng chất lượng, đảm bảo các quy định, tiêu chuẩn cho sản phẩm. Bởi vì phía EU cũng đưa ra hàng loạt các quy định, tiêu chuẩn, quy chuẩn khắt khe nhằm bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng của EU. Đối với các sản phẩm rau quả tươi, doanh nghiệp phải tuân thủ chặt chẽ theo các quy định về MRLs và ngăn ngừa tình trạng nhiễm vi khuẩn. Bên cạnh đó, để chiếm lĩnh tốt thị trường EU, nông dân phải chuyển hướng sang canh tác bền vững, đạt chứng nhận quốc tế.
Theo ông, đây có phải là thời điểm để DN Việt Nam tự thay đổi?
- Như tôi đã nói, EU áp dụng rất nhiều quy định đối với hàng nhập khẩu các nước chứ không riêng gì hàng nhập khẩu của Việt Nam. DN phải xem đây là cơ hội để tự thay đổi, tự lớn lên. Rào cản thương mại chỉ làm chúng ta mạnh lên chứ không hề yếu đi. Có thể chúng ta khó đáp ứng được ngay những quy định của họ nhưng sau đó sẽ làm được. Tôi nghĩ rằng, khó khăn là thách thức thật nhưng không có hại. EVFTA là hiệp định có mức cam kết cao nhất so với các hiệp định mà Việt Nam từng ký kết, mở ra cơ hội to lớn cho thương mại và cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh. Hãy cùng nhìn về phía trước để thấy lợi mà tự tái cơ cấu và tiến lên thật tốt.
Trân trọng cảm ơn ông!