Báo Đại Đoàn Kết trân trọng giới thiệu bài viết của Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Chủ tịch nước Lê Đức Anh thăm xưởng sửa chữa máy bay của Sư đoàn Không quân 372, ngày 9/1/1996. Ảnh: TTXVN.
Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là một vị tướng trận mạc, nhà lãnh đạo đức độ, tài năng, một trong những học trò ưu tú, xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và sự trưởng thành của quân đội.
Tham gia cách mạng từ năm 17 tuổi (năm 1937), cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí gắn liền với nhiều mốc son lịch sử dân tộc. Đồng chí đã mang hết sức lực, trí tuệ và phẩm chất của người cộng sản để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng đầy gian khổ, hy sinh với những thử thách vô cùng cam go, nghiệt ngã, nhưng rất đỗi vẻ vang, tự hào.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, phải chứng kiến hình ảnh người dân sống cơ cực dưới gót giày thực dân, phong kiến đã hun đúc trong đồng chí lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc và tinh thần đấu tranh cách mạng triệt để. Ngay từ lúc còn trẻ, đồng chí đã tích cực tham gia hoạt động trong Mặt trận Dân chủ ở các huyện: Phú Vang, Phú Lộc (tỉnh Thừa Thiên-Huế); tổ chức và phụ trách các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh; tham gia đấu tranh giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám 1945; tham gia kháng chiến ở miền Đông Nam Bộ… với lòng nhiệt huyết cách mạng cao cả, tình yêu nước, thương dân sâu sắc. Đồng chí đã tham gia quân đội và gắn bó với cuộc đời binh nghiệp đầy gian khổ và oanh liệt. Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược và chống đế quốc Mỹ, cứu nước, đồng chí đã tích cực phấn đấu, rèn luyện ý chí, tài năng, không ngừng trưởng thành và có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng chí đã trực tiếp tham gia chỉ huy nhiều chiến dịch lớn, như: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4-1975; chỉ huy xây dựng lực lượng vũ trang ở Đồng bằng sông Cửu Long và chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam; làm nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Khmer Đỏ, giúp bạn xây dựng lại đất nước...
Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, đồng chí đã đảm nhiệm nhiều cương vị công tác quan trọng, như: Tư lệnh Quân khu 9; Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7 kiêm Chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương của Bộ Quốc phòng ở Mặt trận Tây Nam; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và sau này là Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam; Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trên các cương vị công tác, dù ở bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, đồng chí cũng luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng của người đảng viên cộng sản; luôn tận tụy, cương nghị, bản lĩnh và dám làm, dám chịu trách nhiệm, đem hết tài năng, trí tuệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh là một nhà lãnh đạo khi đứng trước những tình thế khó khăn, buộc phải ra quyết định đã luôn phát huy tố chất của một người có “tầm nhìn sâu và rộng trong những vấn đề chiến lược của đất nước”. Với năng lực tư duy sáng tạo và hành động quyết liệt, tấm lòng vì nước, vì dân, đồng chí không quản ngại khó khăn, không sợ trách nhiệm mà luôn quyết đoán chính xác các tình huống, tìm được cách giải quyết đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với xu thế của thời cuộc và yêu cầu thực tiễn đặt ra. Đồng chí đã in dấu ấn sâu sắc vào nhiều sự kiện trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vào cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc và phía Tây Nam, làm nghĩa vụ quốc tế vẻ vang ở Campuchia, vào công cuộc đổi mới đất nước cũng như tham gia hoạch định chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng, Nhà nước cả về đối nội và đối ngoại. Sau khi nghỉ công tác, đồng chí vẫn tích cực nghiên cứu và đề xuất nhiều ý kiến tâm huyết, có tầm chiến lược đối với Đảng và Nhà nước ta.
Trong những năm giữ cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, với kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đồng chí cùng tập thể Thường vụ, Đảng ủy Quân sự Trung ương, thủ trưởng Bộ Quốc phòng đoàn kết, thống nhất, thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới; lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân; xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Dấu ấn nổi bật trong thời gian giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là đồng chí đã đề xuất kế hoạch xây dựng quân đội tinh, gọn, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao và cắt giảm lực lượng vũ trang để tập trung cho phát triển đất nước trong thời điểm nhất định; điều chỉnh chiến lược phòng thủ đất nước trong tình hình mới, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế lúc bấy giờ mà vẫn bảo đảm sức mạnh để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Khi kế hoạch đó được Bộ Chính trị thông qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương, thủ trưởng Bộ Quốc phòng, trực tiếp là đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, thế trận phòng thủ đất nước được bố trí lại phù hợp, hiệu quả hơn; thế trận chiến tranh nhân dân và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân được phát huy cao độ, nhất là ở các vùng biên giới, hải đảo, địa bàn chiến lược; đường biên giới hữu nghị với các nước được xây dựng, củng cố; lực lượng phòng thủ trên biển, đảo được tăng cường. Quân số thường trực giảm nhưng chất lượng được nâng cao. Điều đó đã giảm được chi phí quốc phòng trong điều kiện đất nước còn rất nhiều khó khăn, khi vừa phải tập trung mọi nguồn lực khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa phải đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế theo đường lối đổi mới để sớm thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội. Đồng thời, đồng chí hết sức quan tâm đến trang bị cho quân đội, xây dựng công nghiệp quốc phòng, chăm lo cải thiện đời sống của cán bộ, chiến sĩ...
Trước những vấn đề phức tạp cần phải hoàn thành, đồng chí luôn trăn trở, tìm tòi, nghiên cứu, xác định phương án giải quyết tối ưu, hiệu quả. Đồng chí đã đề xuất nhiều giải pháp quan trọng, mở ra bước đột phá trong việc bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ với chiến dịch “Phẫu thuật nụ cười” và “Tìm kiếm người Mỹ mất tích-MIA”. Với những bước phát triển lịch sử trong quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ ngày nay, góp phần vào sự phát triển thịnh vượng của mỗi nước và hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới đã chứng minh tầm nhìn của đồng chí là đúng đắn, nắm bắt được xu thế thời cuộc. Ngoài ra, đồng chí còn là người khởi xướng và đề xuất với Đảng, Nhà nước ta phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng để tri ân những tấm gương phụ nữ cao quý, có chồng, con hy sinh trong các cuộc chiến tranh chống thực dân, đế quốc, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc.
Trên cương vị Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh luôn sát cánh cùng đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, tập thể Bộ Chính trị và các nhà lãnh đạo khác khởi xướng, đề xuất nhiều quyết sách quan trọng để chỉ đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước ta dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế trầm trọng và sự bao vây, cấm vận. Đồng chí đã dành nhiều thời gian cùng Trung ương Đảng, Quốc hội xây dựng hệ thống luật pháp, bổ sung, sửa đổi Hiến pháp cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới của cách mạng, bảo đảm cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng; đồng thời tích cực đẩy mạnh hợp tác với một số nước trên thế giới để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với Việt Nam cả về lĩnh vực chính trị và kinh tế. Trong xử lý, giải quyết các mối quan hệ quốc tế, đồng chí luôn đứng trên lập trường độc lập và đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, đúng như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Vì vậy, mặc dù trong thời gian đồng chí là Chủ tịch nước, đứng trước những khó khăn, thử thách hết sức gay gắt, lạm phát ở mức cao, bao vây, cấm vận chưa được gỡ bỏ… nhưng đất nước đã có sự chuyển mình trên con đường đổi mới, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quan hệ quốc tế được mở rộng, độc lập dân tộc được giữ vững, vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
Là cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, quân đội, đồng chí luôn là một đảng viên mẫu mực, có phẩm chất cách mạng trong sáng, sống trung thực, đoàn kết, khiêm tốn, giản dị, chí công vô tư. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, đồng chí luôn một lòng trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, giữ vững khí tiết của người đảng viên cộng sản, tư tưởng tiến công, ý chí tự lực, tự cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó. Đánh giá về đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, đồng chí Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư đã nhận định: “Đồng chí Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cỡ, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta. Vốn là cán bộ chỉ huy quân đội, đã trải qua thực tế chiến đấu gian khổ của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn ở Campuchia, nên ở anh, quan điểm giai cấp rất vững vàng và rõ ràng. Sinh hoạt và lối sống giản dị, mẫu mực”. Còn đồng chí Thủ tướng Võ Văn Kiệt thì cho rằng, đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh là một trong những người lãnh đạo quốc gia tầm cỡ trong thời kỳ đổi mới đất nước, “cán bộ tham mưu tầm cỡ, một vị tướng chỉ huy cương nghị, bản lĩnh và dám chịu trách nhiệm”.
Ngày nay, sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển mới, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Yêu cầu về chấn chỉnh lực lượng quân đội phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước đang đặt ra những vấn đề mới cần quan tâm giải quyết. Quán triệt tư tưởng, quan điểm của đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam nguyện trau dồi bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; tinh thần cách mạng tiến công; không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống. Đồng thời tích cực chấn chỉnh tổ chức, lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh, bảo đảm nâng cao sức mạnh chiến đấu, phù hợp với yêu cầu của nghệ thuật tác chiến hiện nay. Tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, “thế trận lòng dân” vững chắc. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng; ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến. Đẩy mạnh chống “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Với tinh thần đó, toàn quân tiếp tục học tập, noi gương đồng chí Đại tướng Lê Đức Anh, nêu cao truyền thống, bản chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ-bộ đội của dân, đoàn kết, thống nhất, chủ động, sáng tạo, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là lực lượng nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.