Tốc độ giải ngân nguồn vốn đầu tư công liên tục chậm là câu chuyện “dài nhiều kỳ” về sự lãng phí, có tiền mà không tiêu được có nguyên nhân quan trọng là chưa tháo gỡ được các nút thắt.
Ngày 18/9, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; Ban Kinh tế Trung ương; Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Diễn đàn Kinh tế- Xã hội Việt Nam 2022 với chủ đề “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững”.
Dự phiên khai mạc có: Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ; Uỷ viên Bộ chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh; Uỷ viên Bộ chính trị, Giám đốc Học Viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Xuân Thắng; Bí thư TƯ Đảng, Chủ tịch UB TƯ MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến; Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân; cùng khoảng 400 đại biểu tham dự trực tiếp tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia và một số chuyên gia, nhà khoa học ở nước ngoài tham dự theo hình thức trực tuyến.
Phát biểu tại Diễn đàn, đề cập đến vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng trong bối cảnh mới, Uỷ viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Nguyễn Xuân Thắng cho rằng, chúng ta đang đứng trước tình hình thế giới và trong nước thay đổi rất nhanh, nhiều biến động, bất ổn tiềm ẩn nhiều rủi ro khó dự báo. Tuy đại dịch Covid-19 đã được kiểm soát trên phạm vi toàn cầu, đa số nước đã nới lỏng các quy định phòng, chống dịch song trên thực tế, dịch bệnh vẫn chưa chấm dứt, hệ luỵ đối với các mặt đời sống xã hội còn nặng nề. Đặc biệt, môi trường phát triển và các động lực tăng trưởng của nền kinh tế thế giới thật sự đang đối mặt với rất nhiều bất lợi, khó khăn.
Theo ông Thắng, cuộc xung đột Nga-Ucraina đã tạo ra cú sốc địa chính trị sâu rộng, đẩy thế giới vào cuộc khủng hoảng năng lượng trầm trọng. Giá năng lượng tăng vọt tạo ra lạm phát chi phí đẩy trên toàn cầu. Một số quốc gia, khu vực đã xuất hiện tình trạng “siêu lạm phát”, chứng kiến chỉ số CPI tăng cao nhất trong nhiều thập niên. Nguy cơ “vừa lạm phát, vừa đình trệ” đang diễn ra, với biểu hiện rõ nét là tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại, xuất hiện những cảnh báo về một “siêu chu kỳ vĩ mô” mới đầy thách thức: lạm phát cao hơn, thâm hụt lớn hơn, biến động vĩ mô mạnh hơn và chu kỳ kinh tế diễn ra nhanh hơn. Thị trường tài chính, thương mại và đầu tư toàn cầu đang chuyển sang một trạng thái mới với hai đặc trưng lớn: thời kỳ lãi suất thấp đã qua và thời kỳ đồng đô- la mạnh đã tới. Nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô trầm trọng hơn, tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, thời tiết và thiên tai khắc nghiệt đang hiện hữu ở rất nhiều nước.
Điều hết sức đặc biệt là, ngược dòng bên ngoài, kinh tế Việt Nam đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của thời kỳ đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh và trong gần 9 tháng qua duy trì được đà tăng trưởng rất khả quan, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát có hiệu quả lạm phát, về cơ bản bảo đảm được các cân đối lớn và được dự báo có mức tăng trưởng lạc quan trong năm 2022. Tuy nhiên, chúng ta tuyệt đối không được chủ quan. Trước những biến động khó lường cả về kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới, nếu không có sự chuẩn bị để ứng phó kịp thời, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có nguy cơ gặp nhiều khó khăn như đã diễn ra cách đây hơn 10 năm, sau khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Ông Thắng cho rằng, các động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế đang chịu áp lực rất lớn từ bên ngoài. Cụ thể, sức ép lạm phát chi phí đẩy có xu hướng giảm nhờ giảm giá dầu thô và giá các đầu vào chiến lược của nền kinh tế, nên giá các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn có khả năng cạnh tranh cao. Mặc dù đạt được kết quả tích cực trong những tháng đầu năm, tăng trưởng xuất khẩu có thể giảm tốc do suy giảm kinh tế của các đối tác nhập khẩu chính, nhất là ba nền kinh tế lớn – Mỹ, EU và Trung Quốc.
Về đầu tư tuy chiếm tỷ lệ không quá cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội nhưng vốn đầu tư công lại có vai trò rất quan trọng, là nguồn vốn “mồi” dẫn dắt tăng trưởng kinh tế và các dòng vốn đầu tư tư nhân. Việc chậm giải ngân vốn đầu tư công tạo ra những hệ luỵ dây chuyền, đang ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Khó khăn sẽ gia tăng nếu dòng vốn đầu tư gián tiếp đảo chiều nhanh chóng khi mặt bằng lãi suất trên thế giới tăng mạnh.
“Tốc độ giải ngân nguồn vốn đầu tư công liên tục chậm là câu chuyện “dài nhiều kỳ” về sự lãng phí, có tiền mà không tiêu được có nguyên nhân quan trọng là chưa tháo gỡ được các nút thắt về cơ chế, chính sách, nhất là các thủ tục về giải phóng mặt bằng, đấu thầu, tìm kiếm các nhà đầu tư có năng lực thật sự và sự thiếu quyết liệt, sợ trách nhiệm trong việc triển khai các dự án lớn”-ông Thắng cho hay.
Bên cạnh đó, hoạt động của thị trường tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán hiện nay còn nhiều rủi ro bởi thiếu vắng sự giám sát an toàn hệ thống, về sở hữu chéo, về giao dịch thiếu lành mạnh, thậm chí vi phạm luật pháp. Lĩnh vực bất động sản vẫn tồn tại những bất cập liên quan đến các quy định về xác định giá đất, đấu giá đất, đấu thầu dự án, về quản lý loại hình bất động sản hỗn hợp, về quy trình, thủ tục lựa chọn chủ đầu tư và triển khai các dự án, chính sách hỗ trợ cân đối nguồn cung về nhà ở thương mại, nhà ở xã hội.
Cũng theo ông Thắng, giải phóng các nguồn lực và mở rộng các động lực tăng trưởng trong nước cần trở thành cách tiếp cận mới để củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế bền vững trong bối cảnh thế giới đang biến động nhanh chóng, có nhiều tác động tiêu cực.
Từ đó, ông Thắng đưa ra 3 đề xuất: tiếp tục cải cách thể chế, tập trung vào các giải pháp đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện khung khổ thể chế, pháp luật về quản lý đất đai và thị trường bất động sản, đặc biệt trong công tác đấu giá đất và phát triển thị trường quyền sử dụng đất để khai thác có hiệu quả nhất một trong những nguồn lực quan trọng của nền kinh tế; Cắt giảm thủ tục hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nắm bắt tốt các cơ hội mà hội nhập đang mang lại cho Việt Nam, khôi phục và mở rộng hoạt động sau đại dịch; Triển khai có hiệu quả gói phục hồi kinh tế-xã hội, tập trung vào các lĩnh vực cấp bách và có khả năng hấp thụ tốt nhất, như chi cho đầu tư hạ tầng đã hoàn thành cơ bản các thủ tục, nhất là các dự án có tính liên vùng, các chương trình trợ cấp, hỗ trợ người lao động.
Tiếp đến là khơi thông các điểm nghẽn, tạo điều kiện cho các địa phương, các ngành kinh tế và các doanh nghiệp phát triển. Đẩy nhanh việc hoàn thiện và triển khai các quy hoạch. Tăng cường liên kết vùng để tạo sự đồng bộ và mở ra một không gian mới, động lực mới cho sự phát triển vùng, các địa phương trong vùng và nền kinh tế quốc gia.
Đặc biệt, ưu tiên tháo gỡ các điểm nghẽn trong phát triển Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, hai đầu tàu kinh tế của cả nước gắn liền với các vùng xung quanh như: Vùng Thủ đô Hà Nội - Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - Vùng đồng bằng sông Hồng và Vùng TP. Hồ Chí Minh – Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Đông Nam Bộ. Chú trọng một số đột phá phát triển như các tuyến hành lang kinh tế dọc các trục giao thông, tuyến cao tốc, các khu kinh tế cửa khẩu. Tháo gỡ những điểm nghẽn về thủ tục, quy định để các địa phương có thể sớm triển khai, hoàn thành các dự án trọng điểm như sân bay, cảng biển, tuyến giao thông huyết mạch và các công trình hạ tầng quan trọng khác để đẩy mạnh thu hút đầu tư.