Thế hệ 4X chúng tôi mỗi khi nghĩ lại những kỉ niệm của thuở học trò đều cảm thấy rưng rưng, xúc động bởi cảm giác vô tư tinh nghịch, vui tươi của tuổi học trò - tay và áo, quần dính đầy mực tím.
Những năm tháng ấy, mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Vui vì được đùa chơi cùng bè bạn, được nghe thầy cô truyền thụ kiến thức mới, mở ra cho đầu óc thơ dại của đứa trẻ những chân trời mơ ước. Vào năm học mới, thế hệ học trò chúng tôi còn háo hức chờ ngày phát sách giáo khoa cho năm học mới. Chúng tôi nâng niu những cuốn sách còn thơm mùi giấy, mùi mực mới. Mang về nhà xin bố mẹ, anh chị những tờ báo cũ để cẩn thận bọc lại.
Sau những tháng, ngày học hành vất vả, nôn nóng đón nhận thành quả học hành sau niên học với kết quả hiển hiện trên sổ liên lạc giữa nhà trường và gia đình những điểm số cùng những lời nhận xét, đánh giá của thầy, cô. Cả lớp quây quần chia vui với các bạn học giỏi trong lớp đạt danh hiệu A1, A2, A3 cùng bằng khen, quà tặng thưởng là những chồng vở viết, cục tẩy, chiếc bút… Liền sau đó là kì nghỉ hè với 3 tháng tha hồ vui chơi thỏa thích, không còn phải bận tâm đến bài vở, trường lớp, học hành.
Suốt quá trình từ lớp vỡ lòng đến cả ba cấp của trường phổ thông thời ấy không chỉ học trò chúng tôi mà cả những bậc phụ huynh dường như chỉ độc một mục tiêu là làm sao cho con mình học giỏi, ngoan ngoãn. Phối hợp với nhà trường để mỗi học sinh dồn hết sức lực, tâm trí của mình vào việc học tập, tu dưỡng bản thân. Học sinh và phụ huynh không phải lo học phí, tiền sách giáo khoa, tiền đóng các quỹ nọ quỹ kia. Tất cả điều đó đều được nhà nước chu cấp.
Tôi còn nhớ sau khi học xong chương trình vỡ lòng, vì làng tôi không có trường nên chúng tôi được xuống trường Vẽ để nhập học. Trường Vẽ là ngôi trường khá nổi tiếng ở bờ Nam sông Hồng (trước đây thuộc Phủ Hoài Đức. Tiếp quản thủ đô thuộc Quận 5 Hà Nội, sau thuộc huyện Từ Liêm và hiện nay nằm trong quận Bắc Từ Liêm).
Trường này gồm cả cấp 1 và cấp 2. Trường Vẽ đến cuối năm 2022 này kỉ niệm tròn 100 năm ra đời. Khi thế hệ chúng tôi học ở đây được lứa giáo viên nổi tiếng của Hà Nội dạo đó dạy dỗ. Thầy Trần Ngọc Trụ, phụ trách lớp tôi là một trong những tác giả của cuốn sách “400 bài toán hay”. Thầy dạy nhạc là nhạc sĩ La Thăng, ca sĩ Kiều Hưng; thầy dạy môn họa sau này thành họa sĩ - nhà thơ Trần Nhương…
Hơn nửa thế kỉ trôi qua mà tôi vẫn nhớ những tiết học thoải mái, nghiêm túc, những giờ ra chơi chúng tôi thả sức chơi ủ mọi, bình kho, đánh bi, đánh đáo trên sân trường rộng mênh mông, dưới bóng cây hoàng lan cổ thụ.
Buổi chiều chúng tôi vừa học bài vừa thả diều trên bờ đê sông Hồng. Hết cấp hai chúng tôi được vào trường cấp 3 Xuân Đỉnh cùng với trường Bắc Lý - một trong những trường nổi tiếng của khối cấp ba dạo đó. Vẫn không khí đến trường thoải mái như hồi ở cấp 1 và 2. Mỗi ngày chỉ học buổi sáng từ thứ hai đến thứ bảy. Ngày thứ năm thì thêm buổi lao động vào buổi chiều.
Học trò nhà xa từ Chèm, Vẽ, Xù, Gạ, Noi… mang cơm nắm muối vừng, cà bát ăn với nhau. Nghỉ ngơi chờ đến hai giờ thì bắt tay vào lao động. Sửa sang nền cỏ sân vận động, rậm lại hàng rào nhà trường, hoặc tham gia giúp dân gặt lúc, hay thu hoạch hoa màu. Dạo đó cũng có những lớp học thêm gọi là phụ đạo, nhưng một tuần chỉ có một, hoặc cùng lắm là hai buổi ngoài giờ chính khoá. Học sinh học phụ đạo đều là học trò học kém trong lớp đến nghe thầy, cô giảng thêm mà không phải đóng thêm bất kì thứ học phí nào.
Tôi nhớ năm 1963, năm lớp tám, lớp đầu của khóa học 1963-1966, trường tổ chức cuộc thi sáng tác văn học dành cho cả ba khối. Kết quả ba giải nhất, nhì, ba đều rơi vào học sinh làng Chèm. Lớp 8A đoạt giải nhất với truyện ngắn “Bác tôi” của tôi, và giải ba với “Nhật kí chăn bò” của trò Nguyễn Văn Đường (sau này là tiến sĩ văn học, nguyên Trưởng khoa Lý luận, Trường ĐHSP Hà Nội). Giải nhì thuộc về trò Nguyễn Ngọc Hân lớp 9A (sau này là Cục trưởng Cục Muối của Bộ Nội thương).
Hàng năm ngoài những buổi thăm quan, dã ngoại những địa điểm có liên quan đến di tích, danh lam trường còn tổ chức giải bóng đá nội bộ dành cho cả ba khối. Lớp 10A do thầy Triệu Hải (sau này là Phó Chủ tịch Thành phố Hà Nội) đã đoạt giải nhất với bàn thắng duy nhất của trò Hiếu trong trận chung kết.
Hình ảnh “đá đeo” sau lưng mỗi học sinh phổ thông đến trường hiện nay không chỉ phản ánh đúng sức nặng của chiếc cặp, chiếc ba lô của các cháu trong các lớp của ba cấp phổ thông mà còn từ suy tư và cả những bức bối của học sinh, phụ huynh trong thời gian chính khóa, cả trong thời gian gọi là nghỉ hè trước những yêu cầu của nhà trường, những đòi hỏi của thầy, cô cùng những vấn nạn trong sự học, trong việc giảng dạy.
Tôi tốt nghiệp cấp ba vào năm 1966, đến nay đã 56 năm. Gần 60 năm trôi qua, nhìn lại thời học phổ thông của chúng tôi hồi đó thấy sự học hành thật nhẹ nhàng.
Còn hôm nay nhìn đám cháu nội của tôi cùng bạn bè của chúng từ lớp một đến lớp 12 (tương đương lớp 10 ngày trước) thật nặng như đá đeo. Hình ảnh “đá đeo” sau lưng mỗi học sinh phổ thông đến trường hiện nay không chỉ phản ánh đúng sức nặng của chiếc cặp, chiếc ba lô của các cháu trong các lớp của ba cấp phổ thông mà còn từ suy tư và cả những bức bối của học sinh, phụ huynh trong thời gian chính khóa, cả trong thời gian gọi là nghỉ hè trước những yêu cầu của nhà trường, những đòi hỏi của thầy, cô cùng những vấn nạn trong sự học, trong việc giảng dạy.
Vấn nạn đầu tiên là sự học thêm. Như một thứ bệnh lan truyền, sự học thêm và bắt học thêm này không biết bắt đầu từ “sáng kiến” của thầy cô và nhà trường nào. Theo tôi chí ít vấn nạn này cũng có từ trên dưới ba thập niên nay.
Thế hệ 4X chúng tôi, học thêm chỉ dành cho học sinh học kém trong lớp với một tuần một, hai buổi còn hiện nay. Học thêm đã trở thành một hiện trạng bắt buộc đối với tất cả học sinh các cấp. Thật buồn cười, kể cả những cháu mới xong chương trình vỡ lòng chuẩn bị bước vào lớp một. Học trò phổ thông gần như suốt ngày, suốt tuần, hết ở trường trong các giờ chính khoá, về nhà ăn vội ăn vàng, lại đâm xấp rập ngửa đến các địa điểm học thêm được mở tại trường, tại nhà thầy, cô giáo hay tại một địa điểm nào đấy.
Tệ hại hơn bằng mọi biện pháp các thầy các cô bắt buộc mọi học sinh đều phải tham gia học thêm. “Nếu không thầy, cô không chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình”.
Đó là chưa kể không ít thầy cô còn cho đầu đề bài kiểm tra, rồi giảng luôn cách giảng để học sinh học thuộc, nắm được cách giải. Ngày kiểm tra chính thức các em chỉ việc chép vào để được điểm tốt. Một cách làm phản giáo dục vì dạy học sinh sự đối phó giả dối và chạy theo thành tích một cách hình thức. Có thời gian sự học thêm bị dư luận xã hội phê phán, không ít nhà trường, thầy cô còn nghĩ ra cách lấy ý kiến phụ huynh “đề nghị cho con em mình học thêm”.
Vấn nạn thứ hai là sách giáo khoa. Chẳng những sách giáo khoa học sinh phải mua khi bước vào năm học, cùng với các loại sách đọc thêm, sách tham khảo. Bên cạnh đó, từ khi có dự án cải tiến giáo dục thì bên cạnh việc biến học sinh thành những con chuột bạch thì nội dung sách giáo khoa liên tục thay đổi, khiến mỗi năm học mới đến học sinh đều phải bắt buộc mua. Với cách làm này nên những đơn vị xuất bản sách giáo khoa hiện nay đã trở thành những đơn vị kinh doanh sách trên lưng học sinh.
Bên cạnh hai vấn nạn chính là học thêm và sách giáo khoa thì sự học phổ thông còn có không ít những vấn nạn khác như việc chạy theo thành tích các trường, các lớp phải thực hiện những chỉ tiêu học sinh giỏi, học sinh khá… Vì thế nên hết năm học 2021 dư luận không khỏi bất bình khi có trường, có lớp tỉ lệ học sinh giỏi lên đến 80-90%. Vấn nạn về bạo lực nhà trường, đạo đức thầy cô giảm sút…
Một vài nét phác thảo về màu sắc giáo dục qua hai giai đoạn của xã hội ta để chúng ta nhận thấy rằng, nếu để thực hiện lời dạy của Bác về sự nghiệp trồng người hiện nay ta thấy ngành giáo dục nói riêng và xã hội ta nói chung phải có nhiều thay đổi cơ bản. Mầm mống của sự thay đổi này đã thấy hiển hiện ở thành phố Hải Phòng trong nhiều năm gần đây đã miễn học phí cho học sinh hệ phổ thông.
Ngành giáo dục trong hội nghị trực tuyến chính phủ với các địa phương ngày 4/7 đã đề nghị miễn học phí cho học sinh THCS từ năm học 2022-2023. Những mầm mồng này có thể coi như những thay đổi đáng mừng. Bởi xét đến cùng để xây dựng tương lai đất nước không thể coi sự nghiệp giáo dục là một ngành kinh tế trong đó coi trọng lỗ lãi bằng đồng tiền, xem nhẹ việc đào tạo con người.