Đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi như thế nào, đầu tư ra sao để đạt hiệu quả giảm nghèo bền vững sau khi Chương trình 135 giai đoạn 2012- 2015 kết thúc- đó là những băn khoăn đang được đặt ra. Bởi kết quả giảm nghèo nói chung, và chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội. Và trên thực tế, mục tiêu của Chương trình 135 đặt ra qua các giai đoạn chưa đạt được như mong đợi.
Chương trình giảm nghèo vùng đồng bào DTTS
giai đoạn mới sẽ chú trọng nâng cao năng lực của cộng đồng.
Chưa như mong muốn
Giai đoạn I (1998 - 2006), Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt danh sách 1.870 xã đặc biệt khó khăn và các xã biên giới thuộc phạm vi của Chương trình 135. Các năm tiếp theo, do có sự chia tách và thành lập xã mới, nên số xã thuộc phạm vi Chương trình 135 đã vượt con số trên.
Khi giai đoạn I kết thúc, Nhà nước đã chi khoảng 10.000 tỷ đồng, cả nước đã xây dựng và đưa vào sử dụng hơn 25 ngàn công trình thiết yếu các loại, góp phần thay đổi đáng kể bộ mặt miền núi, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, cũng có đánh giá rằng hiệu quả của Chương trình 135 còn chưa cao, nhiều mục tiêu chưa thực hiện được.
Vì vậy, nếu ở giai đoạn I, Chương trình 135 tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn; thì sang giai đoạn II (2006 - 2010) Chương trình 135 đã chuyển hướng đầu tư về xã, thôn đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa và biên giới.
Ở giai đoạn II, ngân sách Trung ương đã đầu tư hơn 13 ngàn tỷ đồng, trong đó hỗ trợ phát triển sản xuất là gần 2 ngàn tỷ đồng; xây dựng cơ sở hạ tầng là gần 9 ngàn tỷ đồng (đã đưa vào sử dụng 10.242 công trình); đào tạo nâng cao năng lực cán bộ cơ sở và cộng đồng là hơn 576 tỷ đồng…
Tổng kết 5 năm triển khai Chương trình 135 giai đoạn II cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn giảm từ 47% (năm 2006) xuống 28,8% (năm 2010). Thu nhập bình quân của đầu người đạt 4,2 triệu đồng/người/năm. Tăng tỷ lệ xã có đường giao thông cho xe cơ giới từ trung tâm xã đến thôn, bản đạt 80,7%, 100% xã có trạm y tế; 100% người dân có nhu cầu được trợ giúp pháp lý miễn phí.
Nhận định về kết quả của Chương trình 135 qua hai giai đoạn, theo Phó Chủ nhiệm UBDT Sơn Phước Hoan: “Thành tựu mà Chương trình 135 giai đoạn I, II đã đạt được rất to lớn, song hiện nay, khoảng cách phát triển giữa vùng dân tộc và miền núi với các vùng khác trong cả nước vẫn còn chênh lệch khá xa. Thu nhập bình quân đầu người toàn vùng chỉ bằng 1/3 thu nhập bình quân chung của khu vực nông thôn. Tỷ lệ nghèo các xã, thôn bản là 45%, nhiều xã lên tới 70 - 80%, khoảng 900.000 hộ ở mức cận nghèo. Theo khảo sát của UBDT tại 50 tỉnh, 356 huyện, 1.848 xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu cho thấy hiện còn: 149 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã, 67,2% thôn, bản chưa có đường trục giao thông được cứng hoá; 3.150 công trình thuỷ lợi cần được đầu tư; 202 xã chưa có điện đến trung tâm, 8.100 thôn, bản (38,6%) chưa được sử dụng điện; 32,2% số hộ chưa có nước sinh hoạt hợp vệ sinh….; trên 218 ngàn cán bộ cấp xã, thôn bản cần được tập huấn nâng cao kiến thức; trên 400 ngàn hộ có nhu cầu được đào tạo, tập huấn kiến thức làm ăn...”.
Cũng theo ông Hoan, đến giai đoạn III (2012 - 2015), Chương trình 135 được thiết kế theo hướng đầu tư trực tiếp tới người dân. Với mục tiêu xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ, nhận thức cho đồng bào DTTS là nhiệm vụ lâu dài, trọng tâm để đồng bào có đủ “sức đề kháng” chống lại các yếu tố bất lợi về điều kiện tự nhiên, khó khăn về kinh tế - xã hội nhằm từng bước phát huy nội lực, vươn lên phát triển bền vững.
Trong giai đoạn III, Chương trình 135 tập trung ưu tiên đầu tư, hỗ trợ 2 nội dung: Hỗ trợ cơ sở hạ tầng và Hỗ trợ phát triển sản xuất. Cụ thể, năm 2012 và 2013 thực hiện theo định mức và vốn đã được phân bổ; năm 2014 và 2015, tăng 1,5 lần so với định mức vốn năm 2013; các năm tiếp theo được bố trí tăng phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Mục tiêu của chương trình là trong giai đoạn 2012 - 2015, tỷ lệ hộ nghèo giảm 4%/năm; đến năm 2015, thu nhập bình quân đầu người đạt 50% mức bình quân chung khu vực nông thôn cả nước, 50% trạm y tế được chuẩn hóa…
Theo đánh giá, thời điểm bắt đầu thực hiện Chương trình 135 giai đoạn III, tỷ lệ nghèo ở các xã, thôn đặc biệt khó khăn là 49,2%, tỷ lệ tái nghèo khoảng 14,3%; thu nhập bình quân đầu người chỉ bằng 50% so với thu nhập bình quân của cả nước; tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch rất thấp (13%), việc tiếp cận giáo dục của con em người dân tộc thiểu số thấp; các điều kiện sống, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội hết sức khó khăn. Đến cuối năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào DTTS giảm đáng kể, theo tổng hợp từ báo cáo của các địa phương, hộ nghèo dân tộc thiểu số bình quân khoảng 34,8%, mỗi năm giảm trên 3,5%.
Dẫu vậy, theo nhận định của Văn phòng Điều phối Chương trình 135, vẫn còn một số khó khăn, bất cập khi thực hiện Chương trình như: việc triển khai thiếu đồng bộ, nhất quán trong thiết kế Chương trình gây nhiều lúng túng, không chủ động cho các cấp thực hiện. Việc bố trí vốn hàng năm cho các địa phương chậm hoặc không đủ. Cơ chế quản lý, thực hiện thiếu, chậm được ban hành, thiếu đồng bộ, một số nội dung chưa rõ ràng, chưa phù hợp với điều kiện thực tế đã gây ra không ít những khó khăn trong quản lý điều hành, hạn chế việc lồng ghép các chính sách và cân đối nguồn lực Chương trình.
Địa bàn thực hiện Chương trình 135 là các xã, thôn đặc biệt khó khăn nên mặc dù tỷ lệ hộ nghèo hàng năm giảm nhanh, nhưng thiếu bền vững, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo còn khá lớn.
Đơn cử như: Điện Biên 35,22%, Sơn La 27,01%, Lai Châu 27,22%, Hà Giang 26,95%, Cao Bằng 24,20%... Nếu so với mục tiêu giảm nghèo của Chương trình mục tiêu quốc gia và Nghị quyết 80/NQ-CP của Chính phủ về giảm nghèo thì chưa đạt được mục tiêu (khoảng 4%/năm) và chưa có xã thoát khỏi diện đặc biệt khó khăn.
Cần sớm thực hiện chương trình mới
Nhìn lại sự tác động của Chương trình 135 qua các giai đoạn, có thể thấy mức sống của hộ gia đình khu vực vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn và vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số vẫn thấp hơn rất nhiều lần so với mức trung bình của cả nước, khoảng cách ngày càng được nới rộng giữa đồng bằng và miền núi… Việc phân bố kinh phí không đồng đều giữa các nhóm dân tộc cho thấy cần có thêm các chính sách hỗ trợ khác cho các xã này ở các chương trình trong tương lai với thiết kế chính sách tốt hơn, trong đó có tính đến điều kiện, đặc điểm, nhu cầu và văn hóa cụ thể của từng nhóm dân tộc…
Đối với Chương trình 135, mới đây Thủ tướng Chính phủ đã nhất trí với báo cáo đề xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, theo đó Chương trình 135 giai đoạn tiếp theo 2016 - 2020 ngoài 2 hợp phần hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất như hiện nay, bổ sung thêm hợp phần hỗ trợ đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ cơ sở, cộng đồng và giao cho UBDT quản lý, chỉ đạo. Đây là một Chương trình nằm trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững (thuộc Chương trình 135), nhằm hỗ trợ đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn trong công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Theo như dự kiến, mục tiêu cụ thể đặt ra của chương trình 135 giai đoạn 2016-2020 sẽ góp phần tăng thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo năm 2020 gấp 3 lần so với năm 2011, tương đương 26 triệu đồng/ người/ năm; giảm tỉ lệ hộ nghèo ở xã nghèo 4%/ năm. Các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Duyên hải miền Trung, Đông Trường Sơn, vùng căn cứ cách mạng phấn đấu mỗi năm giảm 4-5% hộ nghèo đồng bào DTTS. Phấn đấu đến năm 2020, ít nhất 25% số xã thuộc chương trình 135 giai đoạn 2016- 2020 hoàn thành các mục tiêu chương trình đã đề ra và ra khỏi diện đầu tư của chương trình.
Dự kiến nguồn vốn đầu tư cho cả giai đoạn 2016- 2020 vào khoảng hơn 40 ngàn tỉ đồng. Nội dung của chương trình được triển khai đồng bộ với 4 nội dung chính: Hỗ trợ phát triển sản xuất; hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng xã thôn; đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ thực hiện; đầu tư phát triển trung tâm cụm xã đang được kỳ vọng sẽ có tác động toàn diện đến công cuộc giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội vùng đặc biệt khó khăn.