Khi những vết đốm đầu tiên bắt đầu xuất hiện trên cơ thể, nhiều cư dân Nepal vẫn không biết chúng là gì.
Khi những nốt mụn đầu tiên bắt đầu xuất hiện trên cơ thể, ông Ramprasad Yadap, 59 tuổi, không biết chúng là gì.
“Tôi biết rằng có điều gì đó không ổn... nhưng tôi lại không biết đó là gì. Tôi đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra những dấu vết này”, ông Yadap, 40 tuổi khi bắt đầu xuất hiện các triệu chứng nhiễm độc thạch tín.
Một bệnh mãn tính do ăn phải hàm lượng thạch tín cao liên tục trong một khoảng thời gian dài, nhiễm độc thạch tín hoặc ngộ độc thạch tín thường mất nhiều năm để xuất hiện những triệu chứng.
Các triệu chứng sẽ bao gồm các vấn đề về da, và cuối cùng có thể dẫn đến ung thư da, bàng quang, thận và phổi.
Tổ tiên của ông Yadap đã sống trong nhiều thập kỷ ở làng Ghanshyampur, một khu định cư nhỏ ở quận Nawalparasi, miền nam Nepal. Nhưng không ai trong số họ đã trải qua vấn đề này trước đây.
Trong suốt cuộc đời của mình, ông đã sử dụng máy bơm tay để hút nước từ các giếng ống cạn. Ông không biết rằng đó chính là nguồn nước có chứa thạch tín.
Ông Yadap cuối cùng được chẩn đoán nhiễm độc thạch tín khi ông tham gia một chương trình khám sức khỏe lưu động cho người dân vào năm 2012.
“Đó không phải là một cuộc tấn công lớn, mà diễn ra một cách từ từ”, ông nói thêm. Sau một khoảng thời gian, chứng nhiễm độc thạch tín đã khiến Yadap hoại tử ở một chi, phải cắt cụt 3 lần.
“Tôi cảm thấy rất buồn,” ông Yadap, người từng là một nông dân nhưng hiện đã nghỉ việc khoảng 5 năm, chia sẻ. “Bây giờ ở đây... Tôi giống như một gánh nặng cho gia đình của tôi”.
Điểm nóng thạch tín
Ở Nepal, thạch tín tồn tại một cách tự nhiên. Các trầm tích do các con sông ở dãy Himalaya lắng đọng từ hàng nghìn năm trước được cho là nguồn gốc của thạch tín trong dòng nước ngầm ở vùng Terai của Nepal.
Tiến sĩ Makhan Maharjan, người nghiên cứu về thạch tín ở Nepal trong hơn hai thập kỷ cho biết: “Thạch tín có thể được tìm thấy với nồng độ cao ở một nơi, nhưng cách xa 10 m có thể vẫn không có. Điều này phụ thuộc vào địa chất”.
Hơn một nửa trên tổng dân số Nepal hiện sống ở khu vực này, nơi có báo cáo rằng 90% dân số sống dựa vào nước ngầm làm nguồn nước uống chính.
Trước đây, giếng đào - phần lớn không chứa thạch tín - chủ yếu được sử dụng ở Terai.
Những giếng lộ thiên này có đường kính rộng, cho nước tiếp xúc với không khí và giúp cho sắt trong nước bị oxy hóa. Thạch tín trong nước sau đó sẽ được hấp thụ trên các kết tủa oxit sắt, làm giảm nồng độ của thạch tín trong nước ngầm.
Nhưng vì nước tiếp xúc với môi trường bên ngoài, điều này có nghĩa là bị ô nhiễm từ các nguồn khác và dẫn đến lây lan các bệnh qua đường nước.
Để giải quyết vấn đề này, nhiều giếng ống cạn đã được lắp đặt để cung cấp nước sinh hoạt. Những giếng ống này có thể được vận hành thủ công bằng máy bơm tay để hút nước ngầm nông để uống.
Nhưng vấn đề nhiễm độc thạch tín đã nổi lên hàng đầu vào những năm 1990 sau khi Bangladesh và nước láng giềng Tây Bengal của Nepal báo cáo các trường hợp ngộ độc hàng loạt do nước ngầm bị nhiễm thạch tín.
Kết quả là, Cục Cấp thoát nước (DWSS) của Nepal, với sự giúp đỡ của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đã tiến hành một nghiên cứu năm 1999 về khả năng nhiễm thạch tín trong nước ngầm của các huyện khác nhau trong khu vực.
Nghiên cứu cuối cùng sẽ xác nhận sự hiện diện của hàm lượng thạch tín cao trong một số khu vực.
Trong một báo cáo năm 2004 của Nhóm Tư vấn Quản lý Nước ngầm và Ngân hàng Thế giới, người ta nói rằng khoảng 20.000 giếng nông được trang bị máy bơm tay đã được thử nghiệm.
Khoảng 30% cho thấy nồng độ cao hơn tiêu chuẩn khuyến nghị của WHO là 10 phần tỷ (ppb) và 5% cao hơn tiêu chuẩn quốc gia của Nepal là 50ppb. Giá trị cao hơn (hơn 100 ppb) được tìm thấy ở 4 quận, trong đó Nawalparasi bị “ảnh hưởng nhiều nhất”.
Một công bố năm 2016 của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản, DWSS và Tổ chức Môi trường và Y tế Công cộng ước tính rằng khoảng 80.000 người có thể đang sử dụng nước nhiễm thạch tín cho sinh hoạt hàng ngày ở Nawalparasi.
Mặc dù hiện tại không có dữ liệu chính thức về số lượng bệnh nhân nhiễm thạch tín ở Nawalparasi, nhưng Tiến sĩ Maharjan ước tính con số này có thể lên đến hàng trăm.
Ông lưu ý: “Nawalparasi được gọi là điểm nóng về ô nhiễm thạch tín ở Nepal”.
“Từ khắp nơi trên thế giới… các nhà nghiên cứu đều đã từng đến nơi này để thu thập mẫu và kiểm tra con người”.
Từ máy lọc nước đến bình chứa gạo
Một trong những cách để giải quyết ô nhiễm thạch tín chính là phân phối các bộ lọc nước gia đình. Những bộ lọc này được coi là một lựa chọn giảm thiểu ngắn hạn và giúp loại bỏ thạch tín trong nước hút từ các giếng ống nông.
Tiến sĩ Maharjan lưu ý: “Mặc dù về mặt lý thuyết, các bộ lọc này có hiệu quả, nhưng các vấn đề về việc sử dụng đã phát sinh trong những năm qua”.
Bộ lọc đất sét sẽ dễ bị vỡ và có vấn đề thấm. Trong khi bộ lọc nhựa sẽ gây ra các vấn đề khác. Trong khi nước được lấy thẳng từ các giếng ống nông sẽ mát mẻ, nước được đổ qua các bộ lọc nhựa cuối cùng sẽ nóng lên trong những tháng mùa hè.
Ông giải thích: “Nước rất nóng khi được đựng trong các thùng nhựa nên người dân thường không thích. Khi chúng tôi đổ nước vào các bộ lọc bằng bê tông hoặc nhựa, một số bụi cũng có thể xuất hiện trong nước. Họ nhìn thấy điều đó và nói rằng nguồn nước rất bẩn”, Tiến sĩ Maharjan nói.
Ông đã tận mắt chứng kiến các bộ lọc bị bỏ đi và được sử dụng cho các mục đích khác như thế nào. Một số người sử dụng chúng làm thùng chứa, một số khác để đựng gạo.
Tiến sĩ Maharjan cho biết, mọi người thích lựa chọn thuận tiện là rút nước từ giếng cạn hơn là lấy nước từ giếng đó, đổ nước qua bộ lọc và trong một số trường hợp, phải đợi một lúc mới có nước sạch.
Thay vào đó, hầu hết người dân đều muốn chính quyền địa phương thiết lập một hệ thống mà nguồn nước sạch được dẫn trực tiếp vào các hộ gia đình và có thể được sử dụng thông qua các vòi bơm.
Điều này đã được thực hiện trong trụ sở huyện của Parasi. Nước được khai thác thông qua quá trình khoan sâu, lưu trữ và dẫn thẳng đến cộng đồng. Công trình này đã được thực hiện trong một số năm.
Tuy nhiên, để điều này được thực hiện trong toàn khu vực sẽ đòi hỏi rất nhiều tiền cũng như kế hoạch quy hoạch phù hợp, Tiến sĩ Maharjan lưu ý.
Ông nói thêm, để hiểu đầy đủ về phạm vi của vấn đề, một nghiên cứu toàn diện cần phải được tiến hành.
“Cần có những nghiên cứu tiếp theo về mức độ thạch tín, tình trạng sức khỏe của người dân. Điều đó sẽ hữu ích cho việc giảm thiểu thạch tín bền vững”, Tiến sĩ Maharjan giải thích.