Dù Việt Nam chưa có khung pháp lý liên quan đến tài sản số nhưng các giao dịch về tài sản số vẫn diễn ra thông qua sàn giao dịch nước ngoài và cá nhân. Do vậy, theo quan điểm của giới chuyên gia, cần hoàn thiện các chính sách quản lý đối với dòng tiền mới này.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tài sản số
Theo báo cáo của tổ chức Chainalysis chuyên về phân tích thị trường, năm 2022, dòng tài sản số hay là tài sản mã hóa vào thị trường Việt Nam khoảng 100 tỷ USD. Con số này tăng trưởng đến năm 2023 là 120 tỷ USD. Năm 2021-2022, Việt Nam luôn nằm trong top 3 trên toàn cầu về người dân sở hữu tài sản số (nghĩa là 21% dân số Việt Nam sở hữu) chỉ sau UAE và Hoa Kỳ.
Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Blockchain Việt Nam Phan Đức Trung cho biết, tài sản số không chỉ là những con số mang tính chất quy mô về dòng tiền dịch chuyển về Việt Nam, mà còn có quy mô cạnh tranh khu vực. Rất nhiều quốc gia trong khu vực ban hành luật lệ, chính sách để thúc đẩy tạo ra hành lang pháp lý cho những dòng tài sản này đóng góp vào nền kinh tế mang giá trị tích cực.
Theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông được giao chủ trì xây dựng và lấy ý kiến góp ý rộng rãi các cấp, các ngành đối với dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số để trình Quốc hội xem xét thông qua vào kỳ họp sắp tới.
Dự thảo luật này có nhiều điểm nổi bật về quản lý, hành lang pháp lý, phát triển công nghệ số. Điều 8 của dự thảo luật định nghĩa: "Tài sản số là sản phẩm công nghệ số được tạo ra, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực quyền sở hữu bằng công nghệ chuỗi khối mà con người có quyền sở hữu theo quy định của pháp luật về dân sự và pháp luật có liên quan".
Không chỉ bao gồm bitcoin và tiền ảo, tài sản số có phạm vi rộng hơn rất nhiều, bao gồm tiền tệ kỹ thuật số (tiền ảo, tiền điện tử, tiền mã hóa), tài sản vô hình (tài sản trong game, tài sản trí tuệ, video, tranh ảnh kỹ thuật số…) và tài sản vật chất được số hóa tranh ảnh vật lý, tài sản tài chính...
Quy định của luật về tài sản số dự kiến được ban hành cũng đặt ra các yêu cầu quan trọng trong việc hoàn thiện các hành lang pháp lý đầy đủ đi cùng với các quy định về quyền sở hữu, nghĩa vụ thuế của các cá nhân, tổ chức hoạt động trong ngành.
Ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, điểm cốt lõi trong dự thảo Luật Công nghiệp Công nghệ số đó là lần đầu tiên đưa ra quy định về tài sản số. Trên thực tiễn, tài sản số, tiền ảo đã phát triển nhưng Việt Nam vẫn chưa có khung khổ pháp lý cho loại tài sản này.
Lý giải về sự cần thiết của việc ban hành khuôn khổ pháp lý đối với tài sản số hay tiền ảo, ông Đậu Anh Tuấn cho rằng, vì chưa có khung khổ pháp lý chính thức nên thời gian vừa qua, có những hoạt động đầu tư kinh doanh buộc phải rời bỏ Việt Nam, như Tập đoàn Sky Mavis, một tập đoàn kỳ lân công nghệ của Việt Nam có hệ sinh thái game, là doanh nghiệp thuần Việt Nam nhưng do Việt Nam chưa có khung khổ pháp lý cho tài sản trong game và hoạt động dựa trên cơ sở nội dung số, tài sản số rất lớn, nên cuối cùng doanh nghiệp chọn Singapore làm nơi đóng trụ sở.
Đã đến lúc tính chuyện thu thuế
Theo ông Trương Bá Tuấn - Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí (Bộ Tài chính), hiện tại trong hệ thống thuế có 9 sắc thuế. Mỗi sắc thuế có vai trò, vị trí, chức năng khác nhau. Nếu như trong trường hợp tài sản số được xem như là một loại tài sản theo quy định pháp luật, Bộ luật Dân sự hiện chưa điều chỉnh nội dung này.
Theo ông Tuấn, tới đây, nếu Luật Công nghiệp công nghệ số đưa vào vấn đề này thì cũng sẽ dẫn đến một số việc. Thứ nhất, có căn cứ để thực hiện pháp luật về thuế đối với chủ thể khi tham gia kinh doanh, chuyển nhượng tài sản số.
Ông Tuấn dẫn chứng, Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định nguyên tắc chung là đối tượng, cá nhân cư trú có nghĩa vụ nộp thuế đối với thu nhập phát sinh ở Việt Nam và ngoài Việt Nam. Đồng thời Luật cũng đưa ra khá rõ các khoản thu nhập chịu thuế, trong đó có một khoản là thu nhập từ sản xuất kinh doanh của cá nhân, ngưỡng trên 100 triệu đồng; thu nhập từ chuyển nhượng tài sản. Luật cũng liệt kê các khoản thu nhập thuộc diện được miễn thuế. Như vậy trong trường hợp giao dịch về tài sản số khi mà tài sản số được pháp luật xem là tài sản thì có căn cứ để thu thuế dựa trên pháp luật hiện nay.
Ông Đậu Anh Tuấn cũng cho rằng: Hiện nay có những giao dịch liên quan đến tài sản số. Về nguyên tắc, các giao dịch ấy cũng như các hàng hóa khác phải nộp thuế. Chúng ta có thuế giá trị gia tăng (VAT), đối với lĩnh vực này, nếu đây được coi là tài sản thì Nhà nước có thể thu thuế giao dịch, thuế thu nhập. Đây cũng là nhu cầu rất chính đáng từ thực tiễn.
Tuy nhiên, cái khó không chỉ ở Việt Nam mà các nước đang phải đối mặt là phải định nghĩa nó là gì. Ở các nước tiếp cận khác nhau, có nước coi là chứng khoán, có nước xem đây là một loại tài sản đặc biệt, có nước xem là một tài sản hỗn hợp. Do đó, tại Việt Nam trước tiên phải ghi nhận tài sản số. Tiếp sau đó định hình, phân loại… từng bước một.
“Trong trường hợp tài sản số được đưa vào Luật Công nghiệp công nghệ số, hay nói cách khác chúng ta thừa nhận tài sản số như một loại tài sản thì chúng ta hoàn toàn có căn cứ để thực hiện thu thuế dựa trên pháp luật thuế của chúng ta. Tương tự Việt Nam có Luật Thuế giá trị gia tăng VAT để chúng ta điều tiết, giao dịch các tài sản” - ông Đậu Anh Tuấn nói.
Tái khẳng định, ông Đậu Anh Tuấn nói đối với vấn đề mới như tài sản số, trước hết phải khẳng định đây là tài sản không bị pháp luật cấm giao dịch, cấm sở hữu hay cấm đề cập đến. Người dân, doanh nghiệp được làm những việc mà pháp luật không cấm. Nhưng sẽ phát sinh một điều, mặc dù có giao dịch, có thu nhập từ giao dịch ấy nhưng chúng ta không thu thuế được.
Từ thực tế này, đã đến lúc chúng ta phải tính chuyện đánh thuế. Vì có những người sở hữu, thu nhập rất lớn từ tài sản ấy, mà về nguyên tắc một người đang sinh sống ở Việt Nam phải có trách nhiệm đóng thuế phần thu nhập.