Cũng như bà con các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, bà con Ba Na có đời sống văn hóa tinh thần phong phú và giàu bản sắc. Bản sắc đó thể hiện ở nhiều mặt cuôc sống, từ dệt vải cho đến dựng nhà, các lễ hội, phong tục hôn nhân gia đình… Tới nay, cuộc sống nhiều biến đổi song những gì thuộc về bản sắc thì vẫn được giữ gìn, phát huy.
Phụ nữ làng Hà Ri giữ gìn nghề dệt thổ cẩm (Bình Định).
Đối với người Ba Na, nghề dệt thổ cẩm đã có từ lâu đời. Sản phẩm thổ cẩm dệt bằng tay của người Ba Na nổi tiếng bởi những hoa văn trang trí rất tinh tế. Không chỉ đẹp về hình thức, mà trong mỗi sản phẩm dệt truyền thống còn ẩn chứa sắc thái văn hóa, thể hiện một tâm hồn phong phú, phóng khoáng.
Các thiếu nữ Ba Na đều được bà hay mẹ chỉ cho cách dệt vải, dệt thổ cẩm từ lúc 12, 13 tuổi. Vì thế, đối với phụ nữ Ba Na, nghề dệt vải, thổ cẩm là đặc biệt quan trọng. Phụ nữ Ba Na nổi tiếng bởi kỹ thuật dệt tinh tế, làm ra những bộ trang phục, những tấm chăn, tấm thảm rất đẹp. Trong đó, việc tạo mầu cho sợi vải hoàn toàn dựa vào các loại cây trên rừng. Bà con giã nát cây chàm ngâm nước ba ngày đêm rồi cho vào một ít vôi bột, đưa búp vải vào khuấy đều, sau một đêm vớt ra sẽ có những sợi vải mầu đen (vì làm công việc này mà phụ nữ Ba Na ngày trước từ khuỷu tay trở xuống đều bị thâm đen). Muốn có chỉ mầu vàng thì nhuộm bằng củ Ktrơn, muốn có mầu đỏ thì dùng vỏ cây Kxan.
Theo nhà nghiên cứu văn hóa Phùng Sơn thì nguyên liệu dệt vải ngày xưa chủ yếu làm từ bông. Để làm được một tấm vải phải trải qua nhiều công đoạn: Lấy bông, cán bông, cào sợi, se sợi, nhuộm. Còn bây giờ người Ba Na vẫn dệt theo cách truyền thống, tuy nhiên nguyên liệu là từ sợi công nghiệp mua ngoài chợ; trang trí hoa văn, mầu sắc vẫn theo lối truyền thống.
Với người Bana, cồng chiêng là biểu tượng của sự linh thiêng, có mặt trong mọi nghi lễ cộng đồng cũng như của từng gia đình, cá nhân. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Yang Danh: “Cồng chiêng có mặt trong mọi nghi lễ cộng đồng cũng như của từng gia đình, cá nhân. Người Ba Na không đơn thuần coi cồng chiêng là nhạc cụ mà coi đó là phương tiện giúp con người giao tiếp với thần linh”.
Âm vang cồng chiêng luôn gắn bó chặt chẽ với các cuộc vui, với đời sống tâm linh, nghi lễ của đồng bào Ba Na. Tuy nhiên, không chỉ có cồng chiêng, người Ba Na còn có nhiều nhạc cụ khác như đàn T’rưng, đàn Blơng khơng... Những nhạc cụ tự chế này làm phong phú đời sống tình cảm của người Ba Na, đồng thời cũng cho thấy chất nghệ sĩ trong mỗi một con người. Nói như nhà nghiên cứu văn hóa Yang Danh thì nếu như dệt thổ cẩm thể hiện sự tài hoa của dân tộc Ba Na qua bàn tay người thợ dệt thì cồng chiêng cùng với các loại nhạc cụ truyền thống lại thể hiện tâm hồn nghệ sĩ, nên trong mỗi người Ba Na đều có một tình yêu lớn dành cho văn hóa truyền thống và luôn ước vọng giữ gìn.
Kiến trúc nhà ở của đồng bào Ba Na cũng có những nét độc đáo riêng. Nhà ở của người Ba Na thuộc loại hình nhà sàn, trong đó nhà rông là tiêu biểu khi là nơi sinh hoạt chung của bà con trong buôn làng. Trường ca, truyện cổ của dân tộc Ba Na cũng là những tác phẩm dân gian độc đáo, có giá trị trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Trong cuộc sống, lễ hội là điều không thể thiếu. Người Ba Na có nhiều lễ hội như; Lễ tạ ơn cha mẹ, lễ đâm trâu, lễ bỏ mả, lễ tạ ơn thần lúa. Những lễ hội không chỉ là dịp để đồng bào tạ ơn trời đất cho vụ mùa bội thu mà còn là dịp vui chơi, đánh cồng chiêng, uống rượu cần...và cũng là dịp để người Ba Na thể hiện tài năng chế biến những món ăn vô cùng độc đáo.
Trong các lễ hội, thì lễ hội cầu an, cầu mùa là rất quan trọng.
Phục dựng cảnh lễ hội cúng bến nước.
Trước khi tổ chức lễ hội, già làng tổ chức cho dân trong buôn phát dọn đường đi sạch sẽ, sửa sang nhà rông, bến nước, dọn vệ sinh các con đường trong buôn. Để chuẩn bị cho lễ hội, người dân chuẩn bị 4 hình nộm người làm bằng các vật liệu, sản vật sẵn có trong tự nhiên hay từ những sản phẩm nông nghiệp. Tùy vào điều kiện kinh tế mà người dân trong buôn cúng cho Yang những lễ vật hiến sinh phù hợp. Thông thường, lễ vật cúng thần của người Bana có thể là những con bò, heo, dê, gà… Những năm gần đây, bà con Ba Na thường chọn dê làm con vật hiến sinh. Theo quan niệm của đồng bào, dê là con vật linh thiêng, là anh của các con vật được nuôi trong làng.
Vào ngày lễ hội, tất cả thành viên trong buôn đều tập trung trước nhà rông để làm lễ cúng thần. Già làng là người chủ trì buổi lễ. Già làng cầm khiên, đao đi đầu, bên cạnh là một thanh niên đeo mặt nạ cầm mác; tiếp sau là 4 thanh niên mang theo hình nộm. Tiếp nữa là 2 thiếu nữ, mỗi người cầm cây lá đót. Cuối cùng là đội cồng chiêng và đi sau là toàn thể dân trong buôn.
Giờ phút được chờ đợi nhất của lễ hội đó là lúc già làng làm lễ cầu khấn các thần linh phù hộ, cảnh người dân làm các động tác hú gọi xua đuổi tà ma trong tiếng cồng chiêng nổi lên dồn dập. Việc xua đuổi những con ma xấu diễn ra cho đến khi đoàn người đi hết khắp buôn làng, đuổi dồn về cuối buôn. Lúc này, tất cả các đạo cụ như: hình nộm, lá đót, mặt nạ…được dân bỏ lại, rồi đoàn người quay về tập trung tại nhà rông. Ngay sau phần lễ, tất cả dân làng cùng đánh cồng chiêng, trình diễn trang phục cổ truyền, uống rượu cần, ăn một bữa chung vui và ca hát.
Ngày nay, những lễ hội cầu an, cầu mùa của đồng bào Ba Na vẫn được lưu giữ, cũng như lễ hội cúng bến nước- cho thấy đời sống tinh thần của người Ba Na gắn bó mật thiết với thiên nhiên.