Việt Nam có 3.450 sông, suối có chiều dài từ 10km trở lên, trong đó có 405 sông liên tỉnh, 3.045 sông, suối nội tỉnh. Nếu nhìn vào con số này, nhiều người cho rằng tài nguyên nước ở Việt Nam rất phong phú, nhưng thực tế việc sử dụng chưa hiệu quả dẫn đến tài nguyên nước ngày càng bị suy kiệt và gia tăng ô nhiễm.
Gia tăng ô nhiễm
Báo cáo của các địa phương cho thấy, hằng năm tổ chức 3.000 cuộc thanh tra, kiểm tra, phát hiện 19.000 trường hợp khai thác, sử dụng tài nguyên nước không đúng quy định, đặc biệt phát hiện và xử lý 1.500 trường hợp xả chất thải vào nguồn nước.
Theo ông Nguyễn Ngọc Điệp - Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam, tỷ lệ nước thải được xử lý trước khi thải ra môi trường rất thấp, trong khoảng 12 triệu m3 nước thải ra môi trường/ngày đêm trên cả nước hiện nay mới có khoảng 1,5 triệu m3 được xử lý, còn lại phần lớn xả thẳng ra môi trường...
Về giá dịch vụ xử lý nước thải ra môi trường cũng là vấn đề quan tâm. “Ở các nước, sử dụng một mét khối nước là 2 Euro trong khi phí nước thải gấp đôi, 4 Euro. Xử lý nước thô thành nước sạch đơn giản hơn xử lý nước thải để đưa vào môi trường nhưng chúng ta chưa có giá dịch vụ mà chỉ thu 10% dịch vụ phí bảo vệ môi trường. Cơ chế này không hấp dẫn các nhà đầu tư, phí 10% chỉ đủ cho các công ty cấp thoát nước duy trì hoạt động thường xuyên, không đủ để nâng cao, cải tạo chất lượng nguồn nước dẫn đến tình trạng ô nhiễm nguồn nước” - ông Điệp nói.
Còn theo ông Nguyễn Văn Thiền - Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Nước - Môi trường Bình Dương, việc định giá bán nước sạch cho người dân phụ thuộc vào chi phí lấy nước thô, giá điện, giá nhân công, tỉ lệ thu hồi nước sạch, và chi phí đầu tư các nhà máy nước. Trong đó, chỉ riêng chi phí lấy nước thô tại các địa phương cũng có sự chênh lệch lớn. Ví dụ, một nhà máy nước sạch tại Long An phải lấy nước thô đạt chuẩn từ sông Tiền khu vực Đồng Tháp cách nhà máy khoảng 40km về để xử lý thành nước sạch. Nhưng chi phí có chỗ chỉ tốn 2.000 đồng/m3, có chỗ tốn tới 5.000 đồng/m3.
Thu hút xã hội hóa
Chỉ ra hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý tài nguyên nước, đại diện Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho rằng, một phần nguyên nhân do có sự chồng chéo, không thống nhất chức năng, nhiệm vụ trong công tác quản lý tài nguyên nước với các lĩnh vực chuyên ngành liên quan. Cùng với đó, cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong quản lý các dòng sông, tầng nước ngầm chưa rõ ràng, còn thiếu hoặc chưa đầy đủ để giải quyết các vấn đề phát sinh thực tế. Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về quản lý tài nguyên nước của các bộ, ngành chưa đầy đủ; nhận thức của chính quyền, người dân về việc thực thi, chấp hành Luật Tài nguyên nước còn hạn chế.
Theo PGS.TS Hoàng Thái Đại - chuyên gia cao cấp Hội Thủy lợi Việt Nam, trong tổng số 63 tỉnh thành cả nước, mới có 30 địa phương có quy hoạch cấp nước. 85% nước thải xả trực tiếp ra các nguồn tiếp nhận, dẫn đến tình trạng ô nhiễm nước diễn ra ở khắp các lưu vực sông, kể cả nước mặt, nước ngầm đều ô nhiễm. Điều này cũng làm cho hiệu quả sử dụng nước rất thấp.
Để tháo gỡ những vướng mắc, các chuyên gia cho rằng, chính quyền các địa phương cần đổi mới thể chế, chính sách, cơ chế tài chính ngành nước theo hướng quản trị thông minh; thu hút nguồn lực xã hội đầu tư phát triển ngành nước; nâng cao hiệu quả sử dụng nước, chủ động nguồn nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, năng lượng, giao thông và các ngành sử dụng nước khác theo hướng bền vững. Cùng với đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm an toàn hồ đập, hợp tác chia sẻ hài hòa nguồn nước xuyên biên giới; phối hợp với các cơ quan chức năng theo dõi, giám sát chặt chẽ nguồn nước liên quốc gia, phát hiện những vấn đề bất thường về lưu lượng, mực nước, chất lượng nguồn nước để quản lý, bảo vệ hiệu quả tài nguyên nước phục vụ đời sống dân sinh và phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước…
“Vấn đề duy tu công trình hạ tầng cấp, thoát và xử lý nước thải chưa được chú trọng. Do đó để có giải pháp bền vững nhất, cần kết hợp các nguồn sáng tạo, cơ chế, chính sách quản lý đầu tư. Cần phải cùng hành động bằng giải pháp chung, đồng hành của các cơ quan Chính phủ, doanh nghiệp, viện khoa học nghiên cứu... mới đạt kết quả tối ưu mang tính liên ngành và liên tục” - PGS.TS Hoàng Thái Đại kiến nghị.