Dê núi là loài chăn nuôi mang lại giá trị kinh tế cao, dễ nuôi, nếu được chăn thả trên đồi núi cao thì giữ được chất lượng thịt ngon hơn, thơm hơn so với chăn nuôi dưới đồng bằng.
Dê núi thuộc loại nhai lại, tạp ăn các loại thức ăn khác khác, không chỉ dễ nuôi mà còn sinh sản nhanh, chống đỡ bệnh tật tốt, đầu tư vốn ban đầu ít, hiệu quả kinh tế cao, thời gian thu hồi vốn nhanh. Bởi những đặc điểm này, nhiều địa phương bà con đã đầu tư nuôi dê núi.
Đơn cử như ở huyện Sơn Dương (tỉnh Tuyên Quang), dê núi được bà con nuôi nhiều, trong đó có xã Trung Yên. Xã Trung Yên có điều kiện thuận lợi cho phát triển đàn dê như diện tích rừng, đồi, núi đá nhiều.
Hay như ở huyện Bạch Thông (tỉnh Bắc Kạn), cũng có nhiều hộ nuôi dê núi mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trong đó, xã Vũ Muộn - một xã vùng cao của huyện Bạch Thông, chủ yếu là đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao cùng sinh sống. Tận dụng điều kiện tự nhiên thuận lợi, vài năm trở lại đây người dân địa phương đã phát triển có hiệu quả nghề nuôi dê núi, góp phần tăng thu nhập.
Theo các hộ nuôi dê núi ở đây, khí hậu, thổ nhưỡng ở vùng đất này rất hợp chăn nuôi dê, có diện tích đồi núi đá rộng, có nơi chăn thả, khe nước. Bản tính giống dê ưa sạch nên núi đá càng cao, càng tách biệt dê càng thích. Người nuôi dê chỉ cần bỏ vốn ban đầu mua con giống, còn quá trình phát triển dê chủ yếu dựa vào đồi núi, thức ăn chủ yếu là từ cây cỏ tự nhiên, không cần đầu tư nhiều vào chuồng trại.
Để chọn được giống dê tốt, bà con cần lưu ý: Đối với dê núi hoang dã cái: Thân hình thanh, mảnh, đầu nhỏ, nhẹ, da mỏng, lông mịn. Dê núi hoang dã cái mắn đẻ (cứ 6-7 tháng/lứa), đẻ sai con, nuôi con khéo, dê con mau lớn.
Dê núi hoang dã đực giống: Không dùng dê đực Cỏ địa phương làm giống, nên chọn mua đực giống là dê Bách Thảo, có tầm vóc to, thân hình cân đối, khoẻ mạnh, không khuyết tật, đầu to, ngắn, trán rộng, mắt sáng, tinh nhanh, bốn chân thẳng, khoẻ, đi đứng vững chắc, hai hòn cà đều, cân đối. Cứ 20-25 dê cái cần 1 dê đực giống Bách Thảo hoặc dê đực ngoại.
Dê núi hoang dã ăn được nhiều loại cỏ, lá cây như lá xoan, lá mít, lá dâm bụt, lá chuối, sắn dây, lá dâu, keo dậu, sim mua... và các loại cỏ trồng, cỏ tự nhiên.
Thức ăn tinh gồm thóc, ngô, sắn, khoai lang, lạc.. thức ăn củ quả như: bí đỏ, khoai lang tươi, chuối... dê núi hoang dã rất thích ăn.
Không cho dê ăn những thức ăn đã ôi thối, mốc hoặc lẫn đất, cát. Không chăn thả dê nơi trũng, lầy, có nước tù đọng để phòng ngừa bệnh giun sán cho dê.
Chăn thả từ 7 - 9 giờ/ngày. Mùa đông khô hanh, thiếu cỏ, ban đêm cần cho dê ăn thêm 3 - 5kg cỏ, lá tươi/con/ngày. Cho uống nước sạch đủ trước khi chăn cũng như sau khi dê núi hoang dã về chuồng. Cố định ống bương nước trong chuồng cho dê liếm láp, bổ sung khoáng vi lượng hàng ngày.
Phòng và trị bệnh
Định kỳ 6 tháng tiêm phòng các loại vaccine tụ huyết trùng và tẩy giun sán cho dê/1 lần.
Dê núi hoang dã hiền lành, có thể nuôi nhốt hoàn toàn hoặc kết hợp nuôi thả ở các vùng ở đồi núi đều cho kết quả tốt. Hàng ngày cần kiểm tra để phát hiện những con dê bỏ ăn, đau ốm, loét miệng, chướng bụng đầy hơi để kịp thời trị bệnh, tránh lây nhiễm cho đàn dê.