90 năm qua, kể từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân ta giành được gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng – Một đảng vững mạnh, được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong quá trình phát triển của mình, Đảng rất coi trọng công tác xây dựng Đảng để Đảng luôn xứng đáng là Đảng lãnh đạo – “Đảng là đạo đức, là văn minh” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn.
Đặt xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, là quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng có vững mạnh, cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy đến đích”.
Cùng với việc xác định “Đảng có vững mạnh, cách mạng mới thành công”, Hồ Chủ tịch thường khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”.
Như vậy, giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc có mối quan hệ hữu cơ và biện chứng. Đây là mối quan hệ giữa Đảng với Dân, mối quan hệ “tin cậy lẫn nhau”, “tín nhiệm lẫn nhau”, “bổ sung cho nhau”. Đảng chỉ mạnh khi gắn bó mật thiết với nhân dân và sức mạnh của nhân dân sẽ được nhân lên gấp bội khi có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã xác định:
“Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng, tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam; tăng cường quan hệ máu thịt của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Để đường lối chiến lược nêu trên đi vào cuộc sống, cần kiên trì:
a. Thực hiện cho được mục tiêu “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Mục tiêu trên là ước vọng ngàn đời của mọi người Việt Nam yêu nước, thương nòi. Yêu nước, đoàn kết cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước đã trở thành lẽ sống của cả dân tộc, của mỗi người Việt Nam qua các thời đại.
Mục tiêu trên cũng là hoài bão, thể hiện ham muốn tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Đó cũng là điều mong muốn cuối cùng của Người trước lúc đi xa: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
Giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là mẫu số chung, là điểm tương đồng, là chất kết dính để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài.
b. Xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.
Nước ta là nước đa dân tộc, đa tôn giáo. Nhân dân ta đã trải qua hơn một phần ba thế kỷ tiến hành chiến tranh chống hết thực dân Pháp đến đế quốc Mỹ xâm lược và các thế lực thù địch. Đất nước cũng đã từng bị chia cắt tạm thời thành hai miền.
Tuy đất nước đã thống nhất, nhưng “những mặc cảm, những khoảng cách còn lại” ở nơi này, nơi khác, thậm chí trong một số gia đình và trong một bộ phận đồng bào có đạo và đồng bào định cư ở nước ngoài vẫn còn tồn tại ở những mức độ khác nhau.
Mặt khác, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là chấp nhận sự thu nhập khác nhau, mức sống và lối sống khác nhau và chấp nhận sự tồn tại lợi ích khác nhau giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội.
Trên cơ sở thừa nhận còn tồn tại những khác biệt đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định:
Để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc ở tầm cao mới, phải “xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và sự đồng thuận xã hội”.
c. Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ta suốt 90 năm qua cho phép Đảng ta khẳng định: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trước hết là trách nhiệm của Đảng vì Đảng là hạt nhân lãnh đạo trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, là hạt nhân của hệ thống chính trị sau khi giành được chính quyền. Đường lối đúng đắn của Đảng là yếu tố quan trọng hàng đầu để khơi dậy và phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Đổi mới, chỉnh đốn Đảng chính là để nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng để Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đào tạo, xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực, gắn bó mật thiết với nhân dân là việc làm có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp đại doàn kết toàn dân tộc.
Trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, muốn đưa đại đoàn kết toàn dân tộc “lên tầm cao mới” và đạt “chiều sâu mới” như Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị (khóa VIII), cần giải quyết hài hòa lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; phải bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đảm bảo mỗi người dân đều được hưởng thụ những thành quả của công cuộc đổi mới.
Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Yêu cầu đặt ra lúc này là: Phải kiên trì, kiên quyết đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, mà trọng tâm là kiên trì, kiên quyết tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là trách nhiệm của Nhà nước vì Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng.
Nhà nước cần tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước.
Các cấp ủy Đảng, lãnh đạo chính quyền các cấp cần thực hiện thành nền nếp việc đối thoại với dân, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến của dân, giải quyết những khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của dân.
Cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả các quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; cán bộ, công chức phải thực sự là công bộc của dân. Đây là yếu tố rất quan trọng, đảm bảo sự bền vững của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Là tổ chức liên minh chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động ngoại giao nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn chúng ta: “Muốn đoàn kết thực sự phải có dân chủ thực sự”. Người còn nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”, “không sợ địch, chỉ sợ lòng dân không yên”.
Đại hội X và Đại hội XI của Đảng tiếp tục ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong Hiến pháp 2013.
Với nhận thức: Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là hoạt động của công cuộc đổi mới, và yêu cầu xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó, cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân, để “đoàn kết thực sự” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, cần tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân và được nhân dân giám sát trong suốt quá trình thực hiện.
Tiếp tục thực hiện với yêu cầu cao hơn, đạt chất lượng tốt hơn về “Quy chế dân chủ ở cơ sở” và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Sớm thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát” là yêu cầu bức bách hiện nay.
Nhân dân ta đã từng tổng kết: “Cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Vì vậy, để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết cần đảm bảo phát huy dân chủ trong Đảng. Và song song với nó, là nâng cao trách nhiệm, tính chủ động và sáng tạo của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, thực hiện thật tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xuất phát từ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình được quy định trong Hiến pháp, pháp luật nhất là trong Luật Mặt trận phải tự khẳng định mình, vận động nhân dân thực hiện ngày càng tốt hơn với chất lượng cao hơn các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện; chủ động, tích cực tham gia theo dõi, giám sát Quy định của Bộ Chính trị “về giám sát đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý” và các quy định khác để góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.