Theo đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT), các chương trình chất lượng cao được các cơ sở đào tạo quan tâm đầu tư và có sức thu hút tốt đối với sinh viên lĩnh vực STEM (bao gồm các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kĩ thuật, toán học). Tuy nhiên, quy mô và tỷ lệ sinh viên theo học các lĩnh vực STEM của Việt Nam còn thấp, chỉ đạt khoảng 55 sinh viên/vạn dân.
Hiện cả nước có 172 cơ sở đào tạo thuộc 150 đơn vị giáo dục đại học (ĐH) đầu mối đào tạo trình độ ĐH các ngành STEM . Tuy nhiên, quy mô đào tạo giữa các cơ sở khác nhau, từ nhỏ đến lớn. Cụ thể, trong 150 cơ sở giáo dục ĐH đầu mối, 30 cơ sở giáo dục ĐH (20%) có quy mô đào tạo lớn hơn 6 nghìn sinh viên STEM và đóng góp gần 75% tổng số sinh viên STEM cả nước; 75 cơ sở giáo dục ĐH (50%) có quy mô đào tạo nhỏ hơn một nghìn sinh viên và chỉ đóng góp dưới 5% tổng số sinh viên STEM toàn quốc. Các chương trình chất lượng cao được cơ sở đào tạo quan tâm đầu tư và có sức thu hút tốt đối với sinh viên lĩnh vực STEM. Đặc biệt, các chương trình đào tạo tài năng đã gây dựng được uy tín, chất lượng tốt cho phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao.
Quy mô tuyển mới trình độ ĐH ngành STEM tăng khá trong 3 năm trở lại đây. Tuy nhiên, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực có nhu cầu nhân lực lớn như: Máy tính và công nghệ thông tin; công nghệ kỹ thuật; kiến trúc và xây dựng.
Tỷ lệ sinh viên chọn học khối STEM tương quan mạnh với mức độ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và vùng. Theo thống kê tuyển sinh năm 2022, các cơ sở đào tạo đặt tại 2 vùng kinh tế phát triển nhất cả nước là Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ có lượng sinh viên chọn học lĩnh vực STEM vượt trên 50%, quy mô tuyển sinh chiếm tới 80% tổng số sinh viên tuyển mới khối STEM cả nước.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ GDĐT, tính theo dân số, số sinh viên ĐH theo học lĩnh vực STEM của Việt Nam chỉ đạt khoảng 55 sinh viên/vạn dân, thấp hơn nhiều lần so với các nước trong khu vực và châu Âu.
Trước đó, ở năm 2021, tuyển sinh toàn khối STEM chưa đạt được 40% chỉ tiêu đào tạo thạc sĩ và không có lĩnh vực nào tuyển đạt 50% chỉ tiêu. Cũng trong năm 2021, tổng số nghiên cứu sinh tuyển mới ngành STEM vỏn vẹn 309 người. Nếu tính cả tỷ lệ không tốt nghiệp được và giả thiết tất cả người tốt nghiệp tiến sĩ đều về làm giảng viên ĐH, thì trung bình hằng năm mỗi cơ sở giáo dục ĐH chưa bổ sung được thêm một giảng viên trình độ tiến sĩ khối STEM từ nguồn đào tạo trong nước; chưa nói tới đáp ứng nhu cầu của các viện nghiên cứu, trung tâm R&D của các tập đoàn công nghệ.
Lý giải nguyên nhân sinh viên ĐH theo học các lĩnh vực STEM còn thấp, bà Nguyễn Thu Thủy- Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH phân tích: Ngoài yếu tố thị trường lao động và đặc điểm ngành học, quan niệm và sự hiểu biết chưa đầy đủ, đúng đắn của người học nói riêng, xã hội nói chung về vai trò của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, đặc điểm và cơ hội phát triển nghề nghiệp của các lĩnh vực STEM trong tương lai cũng là nguyên nhân dẫn tới một số lĩnh vực STEM thiếu sức thu hút người học, nhất là bậc sau ĐH. Bên cạnh đó, đào tạo ngành STEM nói chung và trình độ sau ĐH nói riêng thường yêu cầu chi phí lớn. Nếu không có hỗ trợ hoặc đặt hàng, giao nhiệm vụ từ Nhà nước, doanh nghiệp sẽ khó có thể bù đắp chi phí đào tạo từ nguồn học phí của người học. Đặc biệt, đào tạo ở trình độ tiến sĩ phải gắn với nghiên cứu. Các trường ĐH thường thực hiện chính sách miễn giảm học phí và hỗ trợ thêm cho nghiên cứu sinh từ nguồn thu hoạt động khoa học - công nghệ mới có khả năng cạnh tranh, tuyển chọn được nghiên cứu sinh năng lực.
Ngân sách nhà nước cấp chi thường xuyên cho cơ sở giáo dục ĐH bị cắt giảm theo lộ trình, nguồn kinh phí khoa học - công nghệ từ Nhà nước cũng không tăng. Do vậy, chỉ số ít cơ sở đào tạo lớn có uy tín, tiềm lực tài chính, năng lực nghiên cứu mạnh mới có khả năng thu hút học viên sau ĐH, nhất là nghiên cứu sinh các ngành STEM. Cùng với đó, cơ chế hợp tác, liên kết giữa cơ sở giáo dục ĐH với doanh nghiệp công nghệ cao chưa có sự gắn kết đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, thương mại hóa sản phẩm.
Bà Thủy nhấn mạnh, việc thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ này là yêu cầu cấp thiết của đất nước, cần cơ chế, chính sách đột phá, nguồn lực đầu tư hiệu quả.